tag:blogger.com,1999:blog-33777542326898638872024-03-13T14:25:22.530-07:00Đan Hùng TínUnknownnoreply@blogger.comBlogger54125tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-21312929925531853362015-12-07T01:39:00.003-08:002015-12-07T23:38:30.479-08:00Xem "năm sinh", xem "hướng nhà", xem "số đo cửa", là bởi vì đâu?(mến tặng các đồng nghiệp)<br />
<br />
1/ Khởi nguồn từ một quyển sách Bói<br />
<br />
Kinh Dịch - một sách dùng để Bói toán, nguồn gốc của nó có thể từ cuối đời Ân, 1.200 năm trước Tây Lịch. Sách không do một người viết mà do nhiều người góp sức trong một ngàn năm, từ Văn Vương nhà Chu mãi đến đầu đời Tây Hán nó mới có hình thức gần như hình thức ngày nay chúng ta được biết. Từ xưa đến nay, trên 2.000 năm, thời nào cũng có người tìm hiểu nó thêm, đem ý riêng của mình và tư tưởng của thời đại chiếu vào nó, khiến cho ý nghĩa và công dụng của nó mỗi ngày một nhiều và một xa nguồn gốc ban đầu.<br />
<br />
Mới đầu nó chỉ là sách bói, tới cuối đời Chu thành một sách triết lý tổng hợp những tư tưởng về vũ trụ quan, nhân sinh quan của dân tộc Trung Hoa thời Tiên Tần; qua đời Hán nó bắt đầu có màu sắc tượng số học, muốn giải thích vũ trụ bằng biểu tượng và số mục, tới đời Ngũ Đại nó được dùng trong môn lý số, đời Tống nó thành lý học.<br />
<br />
Môn "dịch học" dựa trên thuyết âm dương , trên một vạch liền __ tượng trưng cho dương, một vạch đứt _ _ tượng trưng cho âm, hai vạch đó chồng lên nhau, đổi lẫn cho nhau nhiều lần thành ra tám hình bát quái, rồi tám hình bát quái này lại chồng lẫn lên nhau thành sáu mươi bốn hình mới: Lục thập tứ quái . Dùng sáu mươi bốn hình này, người Trung Hoa diễn được tất cả các quan niệm về vũ trụ, về nhân sinh, từ những hiện tượng trên trời dưới đất, những luật thiên nhiên tới những đồ dùng, những công việc thường ngày như trị nước, ra quân, trị nhà, cưới hỏi, ăn uống , xử thế... <br />
<br />
Vì dịch học chỉ xây dựng trên 64 quẻ do hai vạch âm, dương chồng lên nhau, đổi chỗ cho nhau ba bốn lần mà thành, cho nên nó có một sức hấp dẫn lạ lùng, ai cũng tò mò muốn biết, mà những người có óc tưởng tượng dồi dào có thể dễ dàng cho mỗi quẻ một ý nghĩa mới, giảng mỗi quẻ theo vũ trụ quan, nhân sinh quan của mình, ý nghĩa đó càng huyền bí thì lại càng có vẻ thâm thúy,; do đó mà không một danh nho nào từ đời Hán đền đời Thanh không tìm hiểu Kinh dịch, hiệu đính, chú thích và một số đã tạo cho nó một nội dung mới khác xa nội dung thời Văn Vương, Chu Công. Nó gần thành một thứ khoa học biến hoá theo thời đại.<br />
<br />
2/ Dịch học sinh ra Tử Vi đẩu số <br />
<br />
Đời Bắc Tống, một đạo sĩ tên là Trần Đoàn, hiệu là Hi Di, sáng tác “dịch đồ” cho rằng bát quái gốc ở Hà Đồ, đưa dịch học vào một nẻo mới, nẻo thuật số (tức thuật đoán số mạng). <br />
<br />
Ông đặt ra môn Bát tự Hà Lạc và Tử vi đẩu số chuyển can chi của ngày tháng, năm sinh thành những con số rồi chuyển số thành quẻ, để đoán vận mạng con người. Sau này môn Tử vi đẩu số phát triển mạnh, lan truyền trong nhân gian<br />
<br />
3/ Dịch học kết hợp với môn Phong Thủy<br />
<br />
Trần Đoàn còn đem Dịch học kết hợp chặt chẽ với với Môn Phong thủy, là một thuyết chuyên nghiên cứu sự ảnh hưởng của địa thế, hướng gió, mạch nước, vị trí mồ mả, bố cục kiến trúc đến đời sống hoạ phúc của con người. <br />
<br />
Sự kết hợp Dịch lý (Bát quái) và Tử vi đầu số ( năm sinh) với hướng Nhà, hướng cửa làm phát sinh thêm các phái Bát Trạch, Huyền Không,... Làm cho Dịch lý và môn Phong thủy càng thêm màu sắc huyền bí. Ngoài ra, Phong thủy còn tuân theo nguyên tắc Ngũ hành, thâm chí là Sinh, Lão, Bệnh, Tử (Phật giáo?) , và một số nguyên tắc dân gian khác khiến cho sự diễn dịch của các "Thầy" càng thêm rắc rối.<br />
<br />
4/ Riêng về cửa, phải theo Cụ Lỗ Bang<br />
<br />
Cụ Lỗ Ban tương tuyền sống ở nước Lỗ vào thời Xuân Thu. Cụ giỏi nghề mộc đến mức thành thánh nhân. Sau khi cụ tịch ko viết lại sách gì, chỉ để lại vài dụng cụ truyền cho đệ tử, trong đó quý nhất là cây thước Lỗ Ban. Trong đấy cụ có Note sẵn những con số được xem là tốt, có ích, đem lại trật sự, hài hòa và phát triển.<br />
<br />
Người Trung Quốc thờ cúng Lỗ Ban (nên có giỗ Tổ nghê mộc) và hay nhờ cụ độ giúp cho thành đạt trong công việc. Cách hay nhất và dễ theo nhất là cứ áp dụng các con số trong Thước tương truyền do cụ để lại. <br />
<br />
Thước nguyên thủy có chiều dài khoảng 42,9 cm. Hiện nay các loại thước dây Xây dựng đều in kèm số Lỗ Ban (màu đỏ) như vậy, suốt chiều dài cây thước kéo, loại 5 mét chẳng hạn, chỉ là một sự lập đi lập lại hơn 11 cây thước Lỗ Ban. Dùng Lỗ Ban thì phải lưu ý hàng dưới dùng đo Mặt đất (Thổ), mặt trên dùng do Bếp, cửa này nọ (Mộc). <br />
<br />
4/ Phong thủy ứng dụng: dùng như thế nào?<br />
<br />
Theo quy tắc : theo các Nội dung cơ bản đã dẫn ở trên. Bất quy tắc : cứ làm ngược lại.<br />
<br />
Thật vậy, ngày nay khi thực hành Môn Phong thủy, ta thường xuyên bắt gặp trường hợp 2 thầy Phong thủy cho hướng dẫn trái ngược nhau 180'. Bởi vì nội dung của môn Phong Thủy quá rộng, sự hướng dẫn tùy theo từng trường phái, tùy thuộc các "Thầy" dùng sách nào để áp dụng.<br />
<br />
Một trường hợp là xét phong thủy của Căn hộ chung cư, ở đây bắt gặp sự lúng túng. Vì Căn hộ nằm ở tầng cao (có khi rất cao) trên mặt đất, nếu áp dụng các quy tắc xưa dùng cho địa thế hướng đất của nhà e rằng không ổn.<br />
<br />
Một ví dụ khác là quy tắc xếp số bậc Thang theo Sinh- lão- bệnh- tử có công thức (4xn+1) nhưng nếu xét từng vế Thang cho từng sàn thì đúng nhưng dùng cho Tổng số bậc thang trong cả Nhà thì sai. <br />
<br />
<br />
Khi áp dụng Lý số vào Phong thủy cũng vậy, xem ngày tháng năm sinh cho gia chủ. Nhưng gia chủ có khi là một người (chồng hoặc vợ), có khi cả chồng lẫn vợ, hoặc có khi phải xét ngày tháng năm sinh của cả đại gia đình (?). <br />
<br />
Xem địa thế đất, hướng nhà, hướng của cũng tùy... Ngày xưa các cụ xây nhà trên khu đất rộng , có tầm nhìn ra núi, ra sông. Ngày nay nhà xếp theo quy hoạch, nhà trong hẻm, nhà phân lô bán sẵn,... nếu cứ quay hướng Cửa, hướng giường, hướng bếp theo quy tắc nhiều trường hợp hoàn toàn bất ổn về mặt công năng sử dụng.<br />
<br />
Rắc rối như thế, nhưng ở trên là những ví dụ ứng dụng theo quy tắc Dịch lý, trong thực tế còn rất nhiều quy tắc theo kiểu truyền miệng. Kiểu này thường là kiểu khó đỡ nhất. Ví dụ như hình ảnh lan truyền trên mạng về Cổng nhà giống chữ "L ngược" trong vụ án Bình Phước gần đây. Được lý giải rằng chữ "L ngược" giống hình ảnh cái Liềm treo ngay cổng vào, chủ nhà tất bị mạng vong. Dân mạng muốn câu view, tăng like nên truyền nhau Share thông điệp trên mà không biết rằng việc ấy khiến rất nhiều KTS phải khốn khổ vì phải chỉnh sửa thiết kế gấp vì tâm lý lo sợ của chủ đầu tư. Thậm chí công trình đang xây mà có chi tiết nào giống chữ "L", dù không ngược cũng phải đập bỏ, chỉnh sửa. <br />
<br />
Vậy thái độ của ta nên thế nào cho phải phép. Đâu là Cơ sở khoa học, đâu là truyền thống dân gian, đâu là mê tín. Ông bà ta có câu : "có thờ có Thiêng, có Kiêng ắt có lành", nghe hơi ba phải nhưng thực tế cuộc sống đôi khi người ta chỉ cần như vậy là đủ.<br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
<br />
<div class="MsoNormal">
<br /></div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-84480548216907125062015-01-13T21:34:00.001-08:002015-01-13T21:39:11.264-08:00Tạo hình nhân vật 'Tam quốc'<br />
<br />
Bên trái là phiên bản 1994, bên phải là phiên bản 2010<br />
<br />
<a href="http://2sao.vietnamnetjsc.vn/2010/01/15/01/51/150110tamquoc01-8.jpg"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEh3APcNif_yvwQwaZaEqFA_hD54pOD1DJTtl5r7_198iVfAfRlYpGQqwjz5FCmYNRXRoBzaqDciCmofyJzEdB7AqRvO1yS-UI7Yu2sEwFjQjBlckm5_lS4Y0AE9LmX3M_gsVZjAb3IdsIuPS7aG_9D1EafdstDrhaNRehVszsjPs8MLKA=" /></a><br />
<br />
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgxt_foa_U4nbVsm5rpdAPZhS_12YW7lnUE3AbPCffbydPGx4aoOWpsIbOROwXSSXv54M2y-YWtmZZP-AaYLR9s_ElSkNZ-SU99nG-v_xmfScElInc6FundrbWxtwBid0d_E9Khu-1Jmbs/s1600/75249895-c14f71135da3c578f919b878.jpg"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgxt_foa_U4nbVsm5rpdAPZhS_12YW7lnUE3AbPCffbydPGx4aoOWpsIbOROwXSSXv54M2y-YWtmZZP-AaYLR9s_ElSkNZ-SU99nG-v_xmfScElInc6FundrbWxtwBid0d_E9Khu-1Jmbs/s1600/75249895-c14f71135da3c578f919b878.jpg" /></a><br />
<br />
Tào Tháo của Bào Quốc An (trái) và Lưu Kiến Bân (phải)<br />
<br />
<a href="http://2sao.vietnamnetjsc.vn/2010/01/15/01/51/150110tamquoc01-16.jpg"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEjECPFNt0mARW13qMnnz0q_rHi9L2smYBzDjOMKkqftas7JKhzgky1D7b-LsfB2P4cOyVmDpkpsHueqjbZZrlfeiFyj1tfqTMbDMkWTEV5FsJsNpZ7ZOXRpYd9V4CQ2ZBkNfmWF5qJG8R6wagHSQGHl5Uua4g0XmQuLWajENU6rRy83oOw=" /></a><br />
<br />
Lưu Bị của Tôn Nhan Quân (trái) và Vu Hòa Bình (phải)<br />
<br />
<a href="http://2sao.vietnamnetjsc.vn/2010/01/15/01/51/150110tamquoc01-7.jpg"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEgmR1cjEDXYQxQvc1oUPOJJD2rM-ovsorfM87YS0RPW329S5D2uYF8-TVh6l1R-OJ3gDftZzxAt8Oa59TVCY5896TR80dLfs04hyphenhyphenaFHva_mNNukC9KfyBDRG3Yizw5fCBgioPi94FPpfVGTAxAqp3gcpbhqH00_d96lo5ETS5cyfO8z3w=" /></a><br />
<br />
Quan Vũ của Lục Thụ Minh (trái) và Vu Vinh Quang<br />
<br />
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg9pBusAlAMV0dfKOE6p2brFdziuf2F2Zl4K-P3yHcLkST864LmAHbWRzyCeCQY68Z4BpVPTByGl5tQ5NbAjXXXIiIy0tzkfQgo4_b4zE2RvLznLilS9ltTDML1wvptmKIZxg80tmM4_eA/s1600/75249895-ba2346f5a160d847dcc4747c.jpg"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg9pBusAlAMV0dfKOE6p2brFdziuf2F2Zl4K-P3yHcLkST864LmAHbWRzyCeCQY68Z4BpVPTByGl5tQ5NbAjXXXIiIy0tzkfQgo4_b4zE2RvLznLilS9ltTDML1wvptmKIZxg80tmM4_eA/s1600/75249895-ba2346f5a160d847dcc4747c.jpg" /></a><br />
<br />
Trương Phi bản cũ và mới<br />
<br />
<a href="http://2sao.vietnamnetjsc.vn/2010/01/15/01/51/150110tamquoc01-10.jpg"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEiyHwbxLCwdsRjSHkdeI_oWshmKijzckHNQoM_ximAKZQ3k07ZiNXO6VFFOITRXs1m6iCx_4OZABN4V7Jz-8EmNfC-n-qD7_wHxDi-Ziedu3xkgCPcaINv92DzVfJOJwmauOzib46zoEq2IhXP3SpD5-iGXHqzGbM4ErX1bx8yOWbiv5x8=" /></a><br />
<br />
Lã Bố của Trương Quang Bắc (trái) và Hà Nhuận Đông (phải)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<a href="http://2sao.vietnamnetjsc.vn/2010/01/15/01/51/150110tamquoc01-11.jpg"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEiyT3E-Q_RB2GUK10vT6U_92a0rKpjyKXiNYoaOkaM8mPCBcmxKPWXVqo-7n00xKlrD-mHGPv6r84IAADB3UppM-lNFMbtqMtBf9GhB4bkZucrJRE0lh7yD9-cg0HnlZTloYgENi6_tdY0eKx8xhIeAExlfzcRD3vfT8ZyUW-EPVVHRqnE=" /></a><br />
<br />
Chu Du của Hồng Vũ Trụ (trái) và Huỳnh Duy Đức (phải)<br />
<br />
<a href="http://2sao.vietnamnetjsc.vn/2010/01/15/01/51/150110tamquoc01-14.jpg"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEh-pvbyVMTvJwBtoPxbPzTfV3ZFdKrWleEh5HGQ-lz4tD64G4bdUYGgJcIFl8QHTg-ectQ5B6oWratdS60HYOiC37t8yyfc9Qo0ZA3Wz7WqXepCDwnXc80m8CAJyxNonyLcKt-kBt9wBNqDwyVHZOo9UYbw7av9Nblfws2vfQhSr0lgJA0=" /></a><br />
<br />
Đổng Trác của Lý Pha (trái) và Lã Tiểu Hòa (phải)<br />
<br />
<a href="http://2sao.vietnamnetjsc.vn/2010/01/15/01/51/150110tamquoc01-6.jpg"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEiQZwX2eo33z9ZXVyup4gKw9DZI6gyEn3H06eyzC6WIbgPM2ASO6NJsgMuTfcZOCxIWs7Q3hb8smd1MckWIzKv5R_0YU48-A4GA9GZd-E4W3s2RKiEOmJuXJmMhbChScDvvrfsvT0Z497t_yQR9nM-QilW4t7yW_JAeDhZe-HdB0O4Z7w=" /></a><br />
<br />
Triệu Vân của Trương Sơn (trái) và Nhiếp Viễn (phải)<br />
<br />
<a href="http://2sao.vietnamnetjsc.vn/2010/01/15/01/51/150110tamquoc01-9.jpg"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEjJafS8UrWEvx7FrE1S4QzhyxOlpo3H0ZrfYNNWlD3z8hauu0iIOE1ZOJdVv8v-9i9XXro5xdXb6aT0vOlPFdbgUnl_YBzWI5Am9dJgxfuh-3aaR1uIRoKtf9m9FOzrm8TsNSdg60mXgxf9J3xpqDu-KSXj5ykT1ueVVNTjIgWfd3TRhg=" /></a><br />
<br />
Tôn Quyền của Ngô Hiểu Đông (trái) và Trương Bác (phải)<br />
<br />
<a href="http://2sao.vietnamnetjsc.vn/2010/01/15/01/51/150110tamquoc25.jpg"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEi5nOeGHB7ydfLGTZuwAv7bJ3WfaUlOznE-Hb3qYor2D0iHG8CjyYlt5kNs51vZEYx-VEs4LKEXCftbqKc8yfTS1qwkODOEXdSy09O41UIySHCC7TTzePZftvxRdNcoLpZTCHju-uPYjmi4CBOV_4z-k426AJK7CG05351bul-MCD0=" /></a><br />
<br />
Gia Cát Lượng của Đường Quốc Cường (trái) và Lục Nghị (phải)<br />
<br />
<a href="http://2sao.vietnamnetjsc.vn/2010/01/15/01/51/150110tamquoc27.jpg"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEhRVMVW7bw-0XVCuHOMduIlnFLNof3a5CJ-jFiQYVMmA_usPJCeAKo6bKZ7z8AFNvAJyKNBRGQjU54trnIY_byoj5-6ezSQruXm1_iSrozjbXLmtifLicFWDVarAQJwA_SN7YJiBmuzvVMoI6Y81LUoygmmtX-kdzQo5rzDkdwXYnA=" /></a><br />
<br />
Điêu Thuyền của Trần Hồng (trái) và Trần Hảo (phải)<br />
<br />
<a href="http://2sao.vietnamnetjsc.vn/2010/01/15/01/51/150110tamquoc01-19.jpg"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEiA9zDjcYa9dRLjFzKRj4ly2LYiW-FwwYADDbuxcACFlh3UQbXdO1n4M40eFbNXTWbUwyZGDLr8mVcN793YPnzVS3UvOxxVkEz4oOkhBeUUsNVcNz6mweoBqZ1bk0XGJYWJIePzKhUwSUVm8FXetLReLo9RIc7NalJ0wMWpoe9wTLp0awQ=" /></a><br />
<br />
Đại Kiều<br />
<br />
<a href="http://2sao.vietnamnetjsc.vn/2010/01/15/01/51/150110tamquoc01-5.jpg"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEjaXL3GKdJJ5g4fAVntAkmMNopOD8OmfwTUpwxxwSFXTgauKu12cpJQaN6Y9G_ZquQupgWfQapBGy1k17TwE_doJcQrebwtyo-1jkfXRwtd1q_haAR0hse-fVLXeogTZLADuf_YD7IVeokQbx9JND8FJPCsy5XtXE8WIRBVBdjS3mqluQ=" /></a><br />
<br />
Tiểu Kiều của Hà Thanh (trái) và Triệu Kha (phải)<br />
<br />
<a href="http://2sao.vietnamnetjsc.vn/2010/01/15/01/51/150110tamquoc26.jpg"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEgUv-lwpl9mghMuBmlTBpWAo4UJNZdvIP2Rv_-lRl4EFSJB2hPKWrOL28G3Y9HNJk-VD5NWa6ycgDj7GzyOHssnSrKyOSahz2E-FfUpblw2YMwXzp4kOB-4frvId5tfRgFjW4ZETeF1jZ9IDsOlhNufolQPbqC4jv4VOZ_ZKU41_BM=" /></a><br />
<br />
Tôn Thượng Hương của Triệu Việt (trái) và Lâm Tâm Như (phải)
<!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2F2sao.vietnamnetjsc.vn%2F2010%2F01%2F15%2F01%2F51%2F150110tamquoc01-5.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEjaXL3GKdJJ5g4fAVntAkmMNopOD8OmfwTUpwxxwSFXTgauKu12cpJQaN6Y9G_ZquQupgWfQapBGy1k17TwE_doJcQrebwtyo-1jkfXRwtd1q_haAR0hse-fVLXeogTZLADuf_YD7IVeokQbx9JND8FJPCsy5XtXE8WIRBVBdjS3mqluQ=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2F2.bp.blogspot.com%2F-BbYXjkvotCI%2FVLX_xqgJxLI%2FAAAAAAAAB14%2F_Bwf2B0jcyk%2Fs1600%2F75249895-c14f71135da3c578f919b878.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgxt_foa_U4nbVsm5rpdAPZhS_12YW7lnUE3AbPCffbydPGx4aoOWpsIbOROwXSSXv54M2y-YWtmZZP-AaYLR9s_ElSkNZ-SU99nG-v_xmfScElInc6FundrbWxtwBid0d_E9Khu-1Jmbs/s1600/75249895-c14f71135da3c578f919b878.jpg" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2F2sao.vietnamnetjsc.vn%2F2010%2F01%2F15%2F01%2F51%2F150110tamquoc01-6.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEiQZwX2eo33z9ZXVyup4gKw9DZI6gyEn3H06eyzC6WIbgPM2ASO6NJsgMuTfcZOCxIWs7Q3hb8smd1MckWIzKv5R_0YU48-A4GA9GZd-E4W3s2RKiEOmJuXJmMhbChScDvvrfsvT0Z497t_yQR9nM-QilW4t7yW_JAeDhZe-HdB0O4Z7w=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2F2sao.vietnamnetjsc.vn%2F2010%2F01%2F15%2F01%2F51%2F150110tamquoc01-14.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEh-pvbyVMTvJwBtoPxbPzTfV3ZFdKrWleEh5HGQ-lz4tD64G4bdUYGgJcIFl8QHTg-ectQ5B6oWratdS60HYOiC37t8yyfc9Qo0ZA3Wz7WqXepCDwnXc80m8CAJyxNonyLcKt-kBt9wBNqDwyVHZOo9UYbw7av9Nblfws2vfQhSr0lgJA0=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2F2sao.vietnamnetjsc.vn%2F2010%2F01%2F15%2F01%2F51%2F150110tamquoc25.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEi5nOeGHB7ydfLGTZuwAv7bJ3WfaUlOznE-Hb3qYor2D0iHG8CjyYlt5kNs51vZEYx-VEs4LKEXCftbqKc8yfTS1qwkODOEXdSy09O41UIySHCC7TTzePZftvxRdNcoLpZTCHju-uPYjmi4CBOV_4z-k426AJK7CG05351bul-MCD0=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2F2sao.vietnamnetjsc.vn%2F2010%2F01%2F15%2F01%2F51%2F150110tamquoc01-11.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEiyT3E-Q_RB2GUK10vT6U_92a0rKpjyKXiNYoaOkaM8mPCBcmxKPWXVqo-7n00xKlrD-mHGPv6r84IAADB3UppM-lNFMbtqMtBf9GhB4bkZucrJRE0lh7yD9-cg0HnlZTloYgENi6_tdY0eKx8xhIeAExlfzcRD3vfT8ZyUW-EPVVHRqnE=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2F2sao.vietnamnetjsc.vn%2F2010%2F01%2F15%2F01%2F51%2F150110tamquoc26.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEgUv-lwpl9mghMuBmlTBpWAo4UJNZdvIP2Rv_-lRl4EFSJB2hPKWrOL28G3Y9HNJk-VD5NWa6ycgDj7GzyOHssnSrKyOSahz2E-FfUpblw2YMwXzp4kOB-4frvId5tfRgFjW4ZETeF1jZ9IDsOlhNufolQPbqC4jv4VOZ_ZKU41_BM=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2F2sao.vietnamnetjsc.vn%2F2010%2F01%2F15%2F01%2F51%2F150110tamquoc01-19.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEiA9zDjcYa9dRLjFzKRj4ly2LYiW-FwwYADDbuxcACFlh3UQbXdO1n4M40eFbNXTWbUwyZGDLr8mVcN793YPnzVS3UvOxxVkEz4oOkhBeUUsNVcNz6mweoBqZ1bk0XGJYWJIePzKhUwSUVm8FXetLReLo9RIc7NalJ0wMWpoe9wTLp0awQ=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2F2sao.vietnamnetjsc.vn%2F2010%2F01%2F15%2F01%2F51%2F150110tamquoc27.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEhRVMVW7bw-0XVCuHOMduIlnFLNof3a5CJ-jFiQYVMmA_usPJCeAKo6bKZ7z8AFNvAJyKNBRGQjU54trnIY_byoj5-6ezSQruXm1_iSrozjbXLmtifLicFWDVarAQJwA_SN7YJiBmuzvVMoI6Y81LUoygmmtX-kdzQo5rzDkdwXYnA=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2F2sao.vietnamnetjsc.vn%2F2010%2F01%2F15%2F01%2F51%2F150110tamquoc01-7.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEgmR1cjEDXYQxQvc1oUPOJJD2rM-ovsorfM87YS0RPW329S5D2uYF8-TVh6l1R-OJ3gDftZzxAt8Oa59TVCY5896TR80dLfs04hyphenhyphenaFHva_mNNukC9KfyBDRG3Yizw5fCBgioPi94FPpfVGTAxAqp3gcpbhqH00_d96lo5ETS5cyfO8z3w=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2F3.bp.blogspot.com%2F-UHHhay0yBH8%2FVLX-6DDKGlI%2FAAAAAAAAB1w%2FN-mwNeC3ua4%2Fs1600%2F75249895-ba2346f5a160d847dcc4747c.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg9pBusAlAMV0dfKOE6p2brFdziuf2F2Zl4K-P3yHcLkST864LmAHbWRzyCeCQY68Z4BpVPTByGl5tQ5NbAjXXXIiIy0tzkfQgo4_b4zE2RvLznLilS9ltTDML1wvptmKIZxg80tmM4_eA/s1600/75249895-ba2346f5a160d847dcc4747c.jpg" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2F2sao.vietnamnetjsc.vn%2F2010%2F01%2F15%2F01%2F51%2F150110tamquoc01-8.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEh3APcNif_yvwQwaZaEqFA_hD54pOD1DJTtl5r7_198iVfAfRlYpGQqwjz5FCmYNRXRoBzaqDciCmofyJzEdB7AqRvO1yS-UI7Yu2sEwFjQjBlckm5_lS4Y0AE9LmX3M_gsVZjAb3IdsIuPS7aG_9D1EafdstDrhaNRehVszsjPs8MLKA=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2F2sao.vietnamnetjsc.vn%2F2010%2F01%2F15%2F01%2F51%2F150110tamquoc01-16.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEjECPFNt0mARW13qMnnz0q_rHi9L2smYBzDjOMKkqftas7JKhzgky1D7b-LsfB2P4cOyVmDpkpsHueqjbZZrlfeiFyj1tfqTMbDMkWTEV5FsJsNpZ7ZOXRpYd9V4CQ2ZBkNfmWF5qJG8R6wagHSQGHl5Uua4g0XmQuLWajENU6rRy83oOw=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2F2sao.vietnamnetjsc.vn%2F2010%2F01%2F15%2F01%2F51%2F150110tamquoc01-9.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEjJafS8UrWEvx7FrE1S4QzhyxOlpo3H0ZrfYNNWlD3z8hauu0iIOE1ZOJdVv8v-9i9XXro5xdXb6aT0vOlPFdbgUnl_YBzWI5Am9dJgxfuh-3aaR1uIRoKtf9m9FOzrm8TsNSdg60mXgxf9J3xpqDu-KSXj5ykT1ueVVNTjIgWfd3TRhg=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2F2sao.vietnamnetjsc.vn%2F2010%2F01%2F15%2F01%2F51%2F150110tamquoc01-10.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEiyHwbxLCwdsRjSHkdeI_oWshmKijzckHNQoM_ximAKZQ3k07ZiNXO6VFFOITRXs1m6iCx_4OZABN4V7Jz-8EmNfC-n-qD7_wHxDi-Ziedu3xkgCPcaINv92DzVfJOJwmauOzib46zoEq2IhXP3SpD5-iGXHqzGbM4ErX1bx8yOWbiv5x8=" -->Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-19333188021961744892014-05-13T01:22:00.003-07:002014-05-13T01:23:24.845-07:00Vì sao Trung Quốc thiết lập giàn khoan trong vùng biển Việt Nam? Vì sao là lúc này và vì sao Việt Nam?<h3 data-mce-style="text-align: center;" style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; line-height: 19px; text-align: center;">
<img alt="Hạm đội Nam Hải của TQ" class="size-full wp-image-4782" data-mce-src="http://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2014/05/south-china-sea-fleet-of-china-navy.jpg" src="http://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2014/05/south-china-sea-fleet-of-china-navy.jpg" height="351" style="-webkit-user-drag: none; background-color: #f3f3f3; border: 0px none; font-size: 12.800000190734863px; margin: 0px; padding: 0px;" width="500" /></h3>
<div class="mceTemp" style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 19px;">
<dl class="wp-caption aligncenter" data-mce-style="width: 510px;" id="attachment_4782" style="-webkit-user-drag: none; background-color: #f3f3f3; border: 1px solid rgb(221, 221, 221); margin: 10px auto; padding-top: 4px; text-align: center; width: 510px;"><dd class="wp-caption-dd" style="-webkit-user-drag: none; font-size: 11px; line-height: 17px; margin: 0px; padding: 0px 4px 5px;"><span data-mce-style="color: #000000;" style="-webkit-user-drag: none; color: black;">Hạm đội Nam Hải của TQ</span></dd></dl>
</div>
<div data-mce-style="text-align: right;" style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 19px; text-align: right;">
<span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;"><strong><a data-mce-href="http://thediplomat.com/authors/ankit-panda/" data-mce-style="color: #999999;" href="http://thediplomat.com/authors/ankit-panda/" style="color: #999999;"><span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;">Ankit Panda</span></a></strong></span></div>
<div data-mce-style="text-align: right;" style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 19px; text-align: right;">
<span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;"><strong><em>Đàm Hà Khánh </em></strong><em>dịch từ</em><strong><em> <a data-mce-href="http://thediplomat.com/2014/05/why-did-china-set-up-an-oil-rig-within-vietnamese-waters/" href="http://thediplomat.com/2014/05/why-did-china-set-up-an-oil-rig-within-vietnamese-waters/"><span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;">The Diplomat</span></a></em></strong></span></div>
<div style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 19px;">
<span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;"><br /></span></div>
<div style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 19px;">
<span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;">Với ai, cái gì, ở đâu, khi nào và như thế nào, việc giàn khoan dầu Trung Quốc HD-981 thâm nhập vào vùng biển Việt Nam đã được đề cập một cách toàn diện, từ những nhà bình luận ở đây tại tạp chí The Diplomat và những nơi khác. Câu hỏi xuyên suốt đặt ra là, với liên tục những hành động khiêu khích của Trung Quốc trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, lý do là tại sao? Sự ẩn khuất trong những quyết định nội bộ của Trung Quốc gây khó khăn để trả lời câu hỏi đó, nhưng một số lượng những bằng chứng hiện hữu cho thấy cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu với Việt Nam được đưa ra nhằm kiểm tra dũng khí của các nước ASEAN và Hoa Kỳ. Nó cung cấp cho Bắc Kinh một cơ hội để đánh giá phản ứng quốc tế để Trung Quốc xác quyết chủ quyền lãnh thổ trên biển của mình</span></div>
<div style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 19px;">
<span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;"><br /></span></div>
<div style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 19px;">
<span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;">Như Carl Thayer đã chỉ ra trên trang này cũng như M. Taylor Fravel cho biết trong cuộc phỏng vấn với The New York Times, quyết định của Công ty dầu khí viễn dương quốc gia Trung Quốc di chuyển giàn khoan dầu HD-981 là một bước đi có chủ ý nhằm khẳng định chủ quyền lãnh thổ. CNOOC có thể là một doanh nghiệp nhà nước nhưng quyết định di chuyển khối tài sản 1 tỷ USD này vào một khu vực có trữ lượng dầu khí chưa rõ ràng trong khi chắc chắn kích động một cuộc khủng hoảng ngoại giao với các kịch bản địa chính trị của động thái này. Thực tế là khoảng 80 tàu hải quân và tàu bảo vệ bờ biển Trung Quốc đi kèm với giàn khoan củng cố quan điểm cho rằng Trung Quốc đã thực hiện một chiến lược tiến tới mục tiêu khẳng định chủ quyền lãnh thổ trong khu vực.</span></div>
<div style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 19px;">
<span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;"><br /></span></div>
<div style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 19px;">
<span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;">Câu hỏi tại sao Trung Quốc đã chọn riêng Việt Nam để leo thang có lẽ dễ trả lời hơn một chút. Một số nhà phân tích đã lưu ý rằng Trung Quốc gây bất ngờ với thế giới bằng cách chọn leo thang tranh chấp lãnh thổ với Việt Nam trong lúc quan hệ giữa hai nước đã được cải thiện, gần đây nhất là vào mùa thu năm 2013. Ngoài ra, tồn tại một mức độ nhất định của tình đồng chí giữa Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) và Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Đối với Trung Quốc, đột ngột mạo hiểm một mối quan hệ song phương tương đối ổn định thông qua một sự cạnh tranh tiềm ẩn có vẻ trắng trợn và vô trách nhiệm.</span></div>
<div style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 19px;">
<span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;"><br /></span></div>
<div style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 19px;">
<span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;">Ngược lại, nếu Trung Quốc phải thúc đẩy bất kỳ tranh chấp nào ở Biển Đông để kiểm tra dũng khí của Hoa Kỳ và các nước ASEAN, Việt Nam có lẽ là ứng cử viên phù hợp nhất. Như Tường Vũ nói với tờ New York Times, một cuộc tranh luận chính trị tồn tại ở Việt Nam về việc nước này nên duy trì gần gũi với Trung Quốc hoặc theo đuổi các mối quan hệ mật thiết hơn với phương tây, và với ảnh hưởng của phe cựu trào có trọng lượng đáng kể hơn. Biết rõ thái độ này, Trung Quốc đánh bạc với một mức độ khá tự tin rằng mặc dù giàn khoan dầu là hành động khiêu khích, Việt Nam chỉ sẽ đáp trả bằng lời nói và giữ giới hạn - không vũ lực.</span><br />
<span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;"><br /></span></div>
<div style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 19px;">
<span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;">Với mục đích này, tàu bảo vệ bờ biển Trung Quốc chỉ đâm vào tàu Việt Nam và bắn họ bằng vòi rồng - PLAN vẫn duy trì chức năng hỗ trợ, đảm bảo rằng bất cứ động cưỡng bức nào đã được sử dụng đều không có nguồn gốc rõ ràng từ tàu quân sự (mặc dù Việt Nam không hoàn toàn đồng ý cách giải thích này). Hơn nữa, trước khi Trung Quốc có thể bắt đầu thử vận may của mình với các đồng minh của Mỹ trong khu vực, chẳng hạn Philippines, nước mà gần đây đã ký một thỏa thuận mười năm chia sẻ cơ sở quốc phòng với Hoa Kỳ, nó phải xem Hoa Kỳ có sẵn sàng bảo vệ lợi ích của mình trong khu vực.</span></div>
<div style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 19px;">
<span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;"><br /></span></div>
<div style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 19px;">
<span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;">Trong khi với Philippines, Hàn Quốc, và Nhật Bản Hoa Kỳ có hiệp ước ràng buộc để hành động, trong trường hợp tranh chấp khác trong Biển Đông, đặc biệt là tranh chấp quần đảo Hoàng Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc, tất cả những gì nước Mỹ đã hành động chứng tỏ rằng họ sẵn sàng đứng lên vì lợi ích của chính họ đã được xác định trong quá khứ, bao gồm tự do hàng hải, giải quyết hòa bình tất cả các cuộc xung đột, và không sử dụng cưỡng chế và đe dọa trong tranh chấp. Với vụ HD-981, Trung Quốc đã thách thức Mỹ trên cả ba. Ngoài ra, với lợi ích của Exxon Mobil ở các vùng biển, HD-981 cũng cản trở lợi ích thương mại của Mỹ trong khu vực. Cho đến nay, phản ứng của Hoa Kỳ - một tuyên bố kêu gọi hành vi của Trung Quốc là "khiêu khích" - thực sự không đủ trọng lượng để Trung Quốc dừng các hành vi như vậy trong tương lai.</span></div>
<div style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 19px;">
<span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;"><br /></span></div>
<div style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 19px;">
<span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;">Cuối cùng, Trung Quốc đã tính toán thời gian để thực hiện động thái này ngay khi Tổng thống Mỹ Barack Obama vừa rời châu Á và ngay trước cuộc họp của lãnh đão ASEAN tại Naypyidaw, Myanmar cuối tuần qua. Làm như vậy, Trung Quốc đã mạo hiểm: động thái chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý của quốc tế lớn và bị lên án. Tuy nhiên, như các báo cáo tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN cho thấy, Trung Quốc vẫn có một sự đảm bảo rằng các nhà lãnh đạo khu vực không được kết chặt đầy đủ để hình thành một mặt trận chung chống lại sự ép buộc của Trung Quốc ở Biển Đông. Trong khi đó đáng chú ý là các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN đã ra một tuyên bố riêng biệt, "quốc tế hóa" các tranh chấp trong khi cho rằng mối nguy từ hành động của Trung Quốc vẫn chưa quá giới hạn ( và có lẽ trong tương lai gần)</span></div>
<div style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 19px;">
<span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;"><br /></span></div>
<div style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 19px;">
<span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;">Tương tự như vậy, đối với một Hoa Kỳ suy sụp, mệt mỏi và không đủ khả năng tài chính cho vai trò cảnh sát toàn cầu, thất bại tại giàn khoan dầu này nằm trong dây chuyền của cuộc khủng hoảng toàn cầu như tại Syria và Ukraina - chỉ cần khác mức độ khẩn cấp chính trị. Bằng cách tránh một đồng minh có hiệp ước hoặc đối tác chính của Mỹ, Trung Quốc tìm cách tô vẽ Mỹ như là một thế lực không thể khẳng định lợi ích của mình trong khu vực. Một hệ quả tiêu cực của việc này là các quốc gia khác tham gia vào tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc sẽ tìm cách đơn phương quân sự hóa để bù đắp sự phụ thuộc vào đảm bảo an ninh của Mỹ, có khả năng tạo ra một viễn cảnh nhức đầu cho Trung Quốc sau này trong tương lai.</span></div>
<div style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 19px;">
<span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;"><br /></span></div>
<div style="color: #333333; font-family: Georgia, 'Times New Roman', 'Bitstream Charter', Times, serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 19px;">
<span data-mce-style="color: #000000;" style="color: black;">Quyết định di chuyển giàn khoan dầu HD-981 vào vùng biển tranh chấp phù hợp với quyết định của Trung Quốc áp đặt khu vực nhận diện phòng không (ADIZ) trên Biển Hoa Đông cho thấy tín hiệu về tham vọng của Trung Quốc trong việc đơn phương theo đuổi yêu sách lãnh thổ trên biển của mình. Trung Quốc nói rằng các giàn khoan dầu sẽ vẫn ở vùng biển này cho đến tháng Tám năm nay. Rốt cuộc điều khác biệt duy nhất trong khủng hoảng lần này là việc lần đầu tiên Trung Quốc thiết lập món tài sản đắt tiền này trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của nước khác. Và Việt Nam không phải là một quốc gia dễ xơi - nó có năng lực hải quân ở mức độ vừa đủ có thể dẫn đến một cuộc ẩu đả có vũ trang với Trung Quốc. Nhìn chung, trong sáu tháng qua, chúng ta đã thấy Trung Quốc trở nên quyết đoán hơn bao giờ hết trong việc theo đuổi tuyên bố của mình, và cho thời điểm này, nó đang thành công.</span></div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-8349986310560753202014-04-16T23:36:00.005-07:002014-04-17T00:05:36.815-07:00Những khẩu tiểu liên nổi tiếngSúng tiểu liên là loại vũ khí cá nhân tầm gần, thuộc họ súng máy, cũng thuộc họ súng tự động tùy theo phân loại của các quốc gia. Do cấu tạo trích khí gián tiếp hoặc trực tiếp để lùi khóa nòng phối hợp với lò xo đẩy đạn, lò xo hồi khóa nòng để nạp đạn tự động, tiểu liên có thể bắn từng phát hoặc bắn liên tục. Tốc độ bắn trong thử nghiệm súng có thể đạt 600 phát/phút. Tốc độ bắn trong thực tế chiến đấu khoảng 100 phát/phút. Hộp tiếp đạn có thể chứa từ 20 đến 40 viên.<br />
<br />
Được phát mình đầu tiên bởi người Đức trong Thế chiến thứ I, sau đó tiếp tục được sử dụng rộng rãi trong Thế chiến II với hai khẩu tiêu liên huyền thoại là M1 Thompson và MP-40. Cho đến sau này, người Đức vẫn chứng tỏ vị trí đứng đầu trong công nghệ sản xuất súng tiểu liên của mình với khẩu MP5 rất nổi tiếng và được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay.<br />
<br />
<br />
<b>M1 Thompson</b><br />
<br />
<br />
Cỡ đạn : .45ACP (11,43x23mm)<br />
<br />
Dài : 852mm (M1928)<br />
<br />
Nặng : 4,9kg (M1928)<br />
<br />
Băng đạn : băng đạn thẳng 20/30 viên, băng đạn tròn 50/100 viên<br />
<br />
Tầm bắn hiệu quả : 100-150m<br />
<br />
Tốc độ bắn: 600 viên/phút<br />
<br />
<br />
<br />
<img src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEgsdmzlv0NdlTtenHEMV2IfOdTMBY0gCBbF6cfEnV7DKtxrhPZ-_toOyzqnmUWdNHDfGXo7oo1RsBfjcssuvfhnKcgKQibasRNIbqnKotHM12qqlXtyJQk7AGiBi6yHcBQ9b9-FxQZxvEq1AA=" /><br />
<br />
<br />
Súng tiểu liên Thompson do ông John T. Thompson thiết kế đã đi vào sản xuất hàng loạt từ năm 1921 với nhiều phiên bản. Thompson là tiểu liên chính của cảnh sát Mỹ trong khoảng thời gian sau vài năm nó được tạo ra, nó cũng xuất hiện với vai trò là súng tiểu liên chính của quân đội Mỹ trong Thế chiến hai, đồng thời cũng được trang bị cho nhiều nước đồng minh khác. Trong chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt Nam, các chiến sĩ cùng người dân Miền Nam Việt Nam đã tịch thu rất nhiều súng Thompson từ quân đội Pháp và đặt cho nó cái tên ngộ nghĩnh là Tôm sông.<br />
<br />
Khẩu súng này có nhiều ưu điểm: tốc độ bắn nhanh, thay đạn dễ dàng, bắn khá chính xác. Nhiều loại súng hiện đại thời nay vẫn dựa trên mẫu Thompson để sản xuất vì cơ cấu chốt khóa cơ bẩm của Thompson làm cho súng tản nhiệt nhanh, cò súng ít khi bị kẹt nhưng cũng bộc lộ nhược điểm: súng khá nặng. Do sử dụng đạn .45 ACP nên súng khá nặng so với những loại súng tiểu liên 9mm khác như là: Sten, MP-40, MAT-49,... Thompson M1919 là khẩu súng sơ khai của các mẫu súng Thompson khác. Sau khi biến chuyển nhiều lần, nó trở thành khẩu M1928 huyền thoại trên mặt trận Thái Bình Dương.<br />
<br />
<br />
<img src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEi7UF0RUzI6-vrCzSjXvb0rH9ocMJ5_GWVfsb3lTAB-WuoiH3qRBVC1ENLegqBpuLC3yDLPWib_1D4Dkf3IKS-Ju6SwGFjNALQpoWvtRvcE9WA27iNVpgUOT679SDv7z1g0P9INpMb25o3kHg=" /><br />
<br />
<br />
Được xem là khẩu súng tiểu liên có liên quan tới các băng đảng gangster ở Mỹ, bằng chứng là trong một bộ phim hình sự của năm 2009 là Public Enemies (Kẻ thù quốc gia), trong bộ phim này Johnny Deep vào vai một tên trùm băng cướp khét tiếng có thật trong lịch sử nước Mỹ tên là John Dillinger, anh ta cùng một số đồng bọn lẫn cả những nhân viên FBI đều dùng súng M1928 "Tommy Gun" trong suốt bộ phim. Súng Thompson có một mối quan hệ tốt với quân đội không lâu sau. Nó được sản xuât rộng rãi từ năm 1925 trở đi cho quân đội Mỹ với số lượng không nhỏ. Liên thanh là một trong những lợi và yếu thế của nó vì đôi khi tản nhiệt không kịp. Độ giật của nó khá cao, vì vậy nên khẩu M1928A1 được đặt thêm thiết bị giảm rung, tiếng Anh gọi là Cutts compensator. Nhưng rắc rối xảy ra khi nó khá đắt tiền và gia công lâu nên khẩu M1A1 ra đời thay thế chỗ cho nó trên mặt trận phía Tây. Sau chiến tranh Triều Tiên, nó tiếp tục nhiệm vụ trong chiến tranh Việt Nam vài năm đầu, đến năm 1965 thì bị thay thế bởi súng trường M16 và AR-15.<br />
<br />
<br />
MP-40<br />
<br />
Cỡ đạn : 9x19mm Parabellum<br />
<br />
<div>
Dài : 630/833mm<br />
<br />
Nặng : 4,03/4,7kg<br />
<br />
Băng đạn : 32 viên<br />
<br />
Tầm bắn hiệu quả : 100m<br />
<br />
Tốc độ bắn: 550 viên/phút<br />
<br />
<img src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEjtCooNaXyAdOfpSmmSKosPstTfddsOnBkkgPsSOtzPjgzIl2BYWgNx3bhAOW2tZQ42XlBmwADcfBJtyMHDy0JncDZzyklBj5pG9XXLAuevT2zZ537mULjni8f7BcSa4VRAPSJltztDd_zcmA=" /><br />
<br />
<br />
MP-40 (MP viết tắt của Maschinenpistole) là loại súng tiểu liên cùng dòng được quân đội Đức quốc xã sử dụng rộng rãi trong thế chiến thứ hai, ngoài ra nó còn được các lực lượng vũ trang khác sử dụng. Nó có 2 người anh em nữa là MP-38 và MP-41. MP-40 được Heinrich Vollmer thiết kế dựa trên mẫu VPM 1930 của Heinrich Vollmer. Quân Đồng minh thường gọi nó là "Schmeisser" theo tên Hugo Schmeisser mặc dù nó thực sự không phải thiết kế của nhà thiết kế súng này.<br />
<br />
MP-40 là loại súng tiểu liên bán tự động và tự động, hoạt động theo nguyên tắc trích khí phản lực, với thiết kế vỏ kim loại hoàn toàn cùng báng gấp khá đẹp và gọn. Ban đầu người ta sản xuất chúng từ nhôm đúc, nhưng sau đó do quá tốn kém nên chúng chỉ được làm với nhôm dát mỏng qua kỹ thuật hàn điện và thậm chí cả nhựa tổng hợp.Tuy nhiên, chúng vẫn nổi tiếng với sự chính xác cao và đặc biệt không bao giờ bị kẹt đạn khi bắn.</div>
<div>
<br />
<img src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEi3ig_j0_G2Zm6ZdUMN6-IhJhGy28NFBRPC50BTQUgY9Y_MuW8tW46y4sP4p9Of-IWhtjB5HF_slZzlfPXJd_nKPP6IRElvZiEXaStevr-Rqb26KOwEVjxlGBQ4n0jpIfZGeyl5fIGTI6eSNg=" /><br />
<br />
Tuy vậy, khẩu MP-40 vẫn có những điểm yếu như ở băng đạn 32 viên của nó. Với kiểu thiết kế băng đạn đẩy từng viên một lên nòng, chứ không phải đẩy 2 viên một lên nòng như khẩu Thompson của Mỹ, tạo ra ma sát lớn giữa các viên đạn trong băng đạn và đôi khi làm cho đạn bị chẹt không lên nòng được. Một nhược điểm nữa mà ta thường xuyên thấy là xạ thủ khi bắn thường nắm tay vào băng đạn tạo ra áp lực lớn lên băng đạn làm băng đạn bị lệch khỏi vị trí và bị lỏng ra khi lắp vào súng. Lính Đức luôn được huấn luyện để khi bắn luôn để tay vào phía giữa băng đạn và cò súng để tránh làm hỏng súng.<br />
<br />
<br />
<b>PPSh-41</b><br />
<br />
Cỡ đạn : 7,62×25mm Tokarev<br />
<br />
Dài : 843mm<br />
<br />
Nặng : 4,3-5,45kg<br />
<br />
Băng đạn : băng đạn trống 71 viên và băng đạn cong 35 viên<br />
<br />
Tầm bắn hiệu quả : 200m<br />
<br />
Tốc độ bắn: 900 viên/phút<br />
<br />
<br />
<br />
<img src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEhEudR7YChstQNGnPgt9Zs5slEzvmses90m8o0VFqul5v2_MyIcF5SUp_r-fPGJ-m74A1drcZA0m3RIUo5HBxByHVkqvYdX-e-JU80wQYEjeHkH_pMez6Ue6_R9bAN4_SKcbEh928IjbJYI_g=" /><br />
<br />
PPSh-41 (Pistolet-Pulemyot Shpagina obrazet 1941 - Súng tiểu liên của Shpangin kiểu năm 1941) là súng tiểu liên được kỹ sư Georgi Shpagin thiết kế. Súng được chấp nhận trang bị năm 1941 và là súng tiểu liên tiêu chuẩn của Hồng quân Xô Viết trong thế chiến thứ hai. Có thể coi đây là một phiên bản đơn giản hóa, tối ưu hóa của khẩu súng tiểu liên do thiếu tướng - kỹ sư Vasily Degtyaryov thiết kế năm 1934 (cải tiến vào năm 1940 trở thành PPD-40). PPSh-41 với thiết kế máy lùi, bắn khi khóa nòng hở, sử dụng đạn 7,62×25mm của súng ngắn Tokarev TT-33 đã trở thành súng tiểu liên tiêu chuẩn của Hồng quân Xô Viết khi đó.<br />
<br />
Ngoài thiết kế đơn giản, dễ chế tạo và sử dụng, những khẩu PPSh-41 được sản xuất trong thế chiến còn rất rẻ do các bộ phận bằng kim loại, trừ nòng và khóa nòng, đều không được gia công bằng các phương pháp phức tạp như súng trường, tuy nhiên vẫn bảo đảm cho khẩu súng có một kết cấu vững chắc. Hàng triệu khẩu PPSh-41 đã ra đời trong các nhà máy tạm thời được sơ tán kể từ khi quân Đức tràn vào lãnh thổ Liên bang Xô Viết.<br />
<br />
<br />
<br />
<img src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEgEhSQOBIHEW3pNlkCZDf4rqx0LfOPJcd64ATnAXPSo_FyZy5EZztr6VkUzDf00pXIKf9u4I67FkifX0MATfR4y4EthbP5la5bHqopDa81SXf5yaOMllCqSykl0suEHT2iFdzEJJVzhO7whwQ=" /><br />
<br />
Đạn 7,62×25mm Tokarev có đường đạn và khả năng xuyên tốt hơn nhiều so với đạn 9x19mm, và tốt hơn nhiều so với đạn .45 ACP. Có thể nói nền móng thành công của 7,62×25mm Tokarev là 7,63×25mm Mauser. Ngoài ưu thế về đạn, PPSh-41 còn có tốc độ bắn lý thuyết lên tới 900 phát/phút tạo ra ưu thế hỏa lực chế áp tầm gần và xung phong. Điều này được củng cố bởi hộp tiếp đạn trống 71 viên làm tăng khả năng duy trì hỏa lực, hạn chế thời gian dừng thay đạn.<br />
<br />
<br />
<b>Sten</b><br />
<br />
<br />
Cỡ đạn : 9x19mm Parabellum</div>
<div>
Dài : 900mm (MkII)</div>
<div>
<br />
Nặng : 3,48kg (MkII)<br />
<br />
Băng đạn : 32 viên<br />
<br />
Tầm bắn hiệu quả : 50-100m<br />
<br />
Tốc độ bắn 500 viên/phút<br />
<br />
<br />
<img src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEhakI1uRXCa1JVaxu5j3bXjplOnczdnzpXWL8u9D1XNVnZDaNh-Al-WlWliFIWKwK3A3KBhFWruBnFKQLBVe3OAotDmSfp7h-CmbVZLSLzcJvfvJ7kuJYV5Kg1tnI5Bf11KP6TgUUwC3e5HTA=" /><br />
<br />
Sten là một trong những khẩu súng tiểu liên được dùng bởi quân đội Anh và tất cả lực lượng kháng chiến ở châu Âu trong suốt thế chiến thứ hai. Đây là một trong những khẩu súng tiểu liên nổi tiếng nhất trong thời thế chiến thứ hai, chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt Nam. Súng tiểu liên Sten được thiết kế khá đơn giản với chi phí sản xuất thấp.<br />
<br />
Khi thế chiến thứ hai bùng nổ, tất cả súng tiểu liên được gửi đến cho quân đội Anh ở tất cả các mặt trận và cũng được bán cho những lực lượng kháng chiến ở châu Âu. Những người kháng chiến bảo rằng thật may mắn khi họ có khẩu Sten vì trước khi Sten ra đời thì họ phải dùng Thompson, MP-40 và một vài khẩu súng trường khác. Hai khẩu tiểu liên đó không có giảm thanh khiến cho những cuộc phục kích và ám sát những sỹ quan cấp cao Đức bị quân lính Đức phát hiện rất nhanh, kết quả là hơn một nữa số người đã bị bắt hoặc bị bắn chết ngay tại chỗ. Nhờ mẫu Sten Mk IIS có thể gắn giảm thanh lẫn cả sự chính sác cao nên việc ám sát của họ đã thành công, có rất nhiều người đã nhận xét rằng Sten có tạo hình rất lạ giống một khẩu súng tự tạo tại nhà hơn là vũ khí trong chiến tranh.<br />
<br />
<br />
<img src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEiOpl9JYUC2XBwbgf2B9AiOw0Tqg7-C2OqlY39mKyQR_t33bjsExxv0TcoDCgWypya2D5u5YUcoTsaKm9d641VMT9b1QRZeRmtuzvtOS0kqsTLrgFq_1z-UXo6iKnqn8cyHxGBSPrEdjqo0xg=" /><br />
<br />
Tuy vậy, khẩu Sten cũng bị coi là thiếu tin cậy hơn so với khẩu Thompson hay MP-40, nó không thể hoạt động ổn định trong những môi trường khắc nghiệt nhưrừng nhiệt đới. Chính vì điều đó đã khiến cho cuộc ám sát một sĩ quan SS, Reinhard Heinrich của hai lính biệt kích người Séc suýt nữa thất bại chỉ vì khẩu Sten của họ bị kẹt đạn và họ phải sử dụng lựu đạn. Có một điều lạ là súng Sten đã được dùng bởi rất nhiều lực lượng Anh trên tất cả các chiến trường nhưng các lực lượng ở châu Phi sử dụng Sten với số lượng ít vô cùng, trong hàng ngàn binh lính chỉ có vài trăm người là dùng khẩu Sten.<br />
<br />
Sten đã được bán khắp nơi trên thế giới sau chiến tranh Việt Nam, nó là một khẩu tiểu liên ưa thích của nhiều lực lượng nổi dậy từ nhiều cuộc chiến trên thế giới. Vì sử dụng loại đạn nổi tiếng thế giới, 9x19mm, nên việc tìm và mua đạn cho khẩu Sten không khó cho lắm. Đáng chú ý nhất là quân du kích Mujahideen và Taliban trong chiến tranh Afghanistan cùng với nhiều lực lượng nổi dậy khác ở châu Phi.<br />
<br />
<b>HK MP5</b><br />
<br />
Nói đến dòng súng tiểu liên SMG (Sub-Machine Gun), không ai không biết đến loại súng HK MP-5, vũ khí rất nổi tiếng có mặt trong trang bị của hầu hết các lực lượng đặc nhiệm trên thế giới, và là niềm tự hào của người Đức. MP5 là khẩu súng có uy lực bắn không lớn nhưng bù lại nó có độ giật thấp khi bắn tốc độ bắn nhanh; nhỏ gọn, nhẹ tiện lợi và có thể lắp thêm phụ kiện như ống hãm thanh, kính ngắm laser... nên khẩu tiểu liên này rất được các đội đặc nhiệm nổi tiếng trên thế giới ưa dùng như đặc nhiệm Hải quân Mỹ Navy SEAL, đặc nhiệm SWAT (Mỹ), Hiến binh Pháp (GIGN), đặc nhiệm GSG-9 (Đức).<br />
<br />
<br />
<img src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEgrrKoabXeJ26iwrvrEXGuCN047T9oFMD6q1wznWhOzUNzP44W7NpqYkJlbhPxdun8klV761We4h6gT-L5V5eoSpS55Jpx3S9Ww3r6iiFFVP-ACUsEQrN22T81FxgqFFdyPqBMImbxMMegnooJYUmmtH3ES8jZtbeYK=" /><br />
<br />
<br />
MP5, về cơ bản giống với khẩu súng trường tấn công HK G-3 với nòng rãnh xoắn, 3 chế độ bắn khác nhau và cơ chế búa điểm hỏa. MP5 sử dụng cơ cấu ngắm bắn khe ngắm – đầu ruồi, cơ cấu này dùng vật chuẩn thứ nhất (đầu ruồi) hình chữ I đặt trong khe ngắm hình chữ V, chia đôi khe sáng ở khe ngắm thành hai phần bằng nhau, đầu ruồi ngang bằng với vai ngắm.<br />
<br />
Sự thành công của MP-5 có thể nói là ngoài mong đợi của nhà sản xuất. Những yếu tố của thành công đó là chất lượng cao và độ tin cậy của súng, khả năng bắn phát một chính xác đến khâm phục, rất linh hoạt.<br />
<br />
<br />
<img src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEjaSbl71qcnFp6Pr_mbpRbUJ18f5devJySGFAiN_JfqpNw_J5nOByoUXEYcl1uce5ExwKU43UtFdeOFdmF3w3CxENfFIRLdkNORR7_Y6g4E2C1iKzlROF5ZLhYdj6wU0JSq2R_o2ZeVDQOFWqkK7zoY2msSML3SsZmbv9kfyHCGku6N4zN-NFpIzTwY6ZDSFo_6rE49kcZ-=" /><br />
<br />
<br />
Súng có ba chế độ bắn, bao gồm: an toàn, bán tự động bắn 1 viên, tự động bắn liên tục. Trang bị loại đạn cỡ 10mm (10x25mm) và 40S&W (10x22mm). Tốc độ bắn 800 viên / phút, tốc độ đạn 400 m/s, tầm bắn hiệu quả 25m đến 100m, tầm bắn tối đa 150 m.<br />
<br />
<b><br />HK UMP</b><br />
<br />
UMP (Universale Maschinenpistole) là loại súng tiểu liên được phát triển và chế tạo bởi công ty Heckler & Koch vào khoảng nửa cuối những năm 1990 và được giới thiệu năm 1999. Súng được thiết kế với tiêu chí nhẹ và mạnh nhưng cũng rẻ hơn khẩu MP-5. Các khách hàng chính mà nó nhắm tới khi được sản xuất là các lực lượng thi hành công vụ.<br />
<br />
<br />
<img src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEh2ya5Ryzd37lVsGc38sRbBbNTMDnQeC7adrqrEHdIpZ-ZrMjhyLomDprcqWUr148OMGNW2kAlluq-dttp4JIinxHYZQNTGmG8VG2Yp94323_hyphenhyphenQ5Oe6tnzsm60Ip3uTcwz8ikMhRWvBiHxR2dvMjMgaTbMC9ci4ReNotU1XkfVIKLGNjTrJ7dGkIuQx3Fb=" /><br />
<br />
<br />
UMP sử dụng cơ chế nạp đạn bằng phản lực bắn và bắn với thoi nạp đạn đóng. Thân súng được làm bằng nhựa tổng hợp để có trọng lượng nhẹ. Nút khóa an toàn cũng là nút chọn chế độ bắn nằm ở cả hai bên thân súng gần hệ thống cò với bốn cơ chế là khóa an toàn, từng viên, 2 hay 3 viên (tùy mẫu) và tự động. Khe nhả vỏ đạn nằm ở phía bên trái súng.<br />
<br />
Hệ thống nhắm cơ bản của súng là điểm ruồi nhưng trên thân súng cũng có thanh răng để gắn các hệ thống nhắm khác phù hợp hơn. Hai thanh răng khác nằm ở hai bên thân súng và một nằm ở dưới lớp ốp tay để gắn các thiết bị hỗ trợ khác như đèn pin, hệ thống nhắm laser, tay cầm... Súng bắn loại đạn mạnh hơn các loại súng tiểu liên khác để tăng hỏa lực và khả năng sát thương vì thế nên độ giật sẽ cao hơn, để có thể điều khiển súng trong chế độ bắn tự động tốc độ bắn của súng được giảm xuống so với MP-5. Báng súng có thể gấp sang một bên khi không cần để tiết kiệm không gian. Nòng súng có thể gắn thêm ống hãm thanh.<br />
<br />
<br />
<img src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEjD8aet-SWo9WI3lBgdxKX6D1Rz56Hd1sUVEf_vQ87mmgur68UBEnn3tM22JIaGeYeARvY3P-Q-frIkQEy1UCiyfot1OARbsB6JUrwXNmOmtGSU2eLqujSy4kd8U8WLm5ANKq8p308ljZKj07SAMiaarAWBZfXOe-noHmqC=" /><br />
<br />
<br />
UMP có chiều dài 450 mm báng gấp / 690 mm báng mở, nặng 2,3-1,65 kg. Sử dụng đạn 9x19mm Parabellum, băng đạn 30 viên hoặc 25 viên tùy phiên bản, tốc độ bắn 600-650 viên/phút và tầm bắn hiệu quả 100m. Hiện nay phiên bản UMP 45 được sử dụng rộng rãi nhất.<br />
<br />
<b><br />Uzi</b><br />
<br />
Uzi là một trong những loại súng tự vệ trang bị cho cá nhân khá nhỏ gọn. Khẩu súng Uzi đầu tiên được thiết kế bởi thiếu tá Uziel Gal - một người Do Thái gốc Đức - vào cuối những năm 1940. Súng được sản xuất bởi Israel Military Industries của Israel, nhà sản xuất FN Herstal của Bỉ, và một số hãng khác theo nhượng quyền. Bản mẫu đầu tiên được chế tạo vào năm 1950 bởi hãng Uziel Gal của Israel. Từ năm 1954, Uzi được đưa vào sử dụng trong quân đội Israel. Trên thế giới, Uzi được trang bị chủ yếu cho các lực lượng cảnh sát, phản ứng nhanh, trong quân đội thường trang bị cho lực lượng đặc biệt và lính tăng, pháo binh.<br />
<br />
<br />
<img src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEjxgir1bmdL38OY2aIFz32LbBYI__d0RBAtfOxhArWc3NVDaRDj0wMyhaV09f_qMJ_Mm2-gHQ8qXD3nScCmv9XDcrEFELVX0N8wdhiKIjQyTmd69B3cyh5XmwpfVyKsYiQChlN7BrsBgYz-A8dIljXq0zVqY-6FKDK7dHDyJIeCbko4R3U=" /><br />
<br />
<br />
Với lợi thế như giá thành rẻ, chịu nước tốt, tiện sử dụng mang vác dễ dàng nên Uzi hay được các lực lượng phản ứng nhanh, đặc công, hay các đội biệt kích sử dụng, bên cạnh đó với tầm sát thương hiệu quả trong vòng 200m thì rõ ràng đây là một lợi thế không thể thuận lợi hơn trong các nhiệm vụ chống khủng bố, bắt cóc, tống tiền ở các địa bàn dân cư đông, hay trong khu trung tâm thành phố.<br />
<br />
<br />
<img src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEgKgqrAWcVqd-NZbpZyN_2Yah5UUCcvppOKsGARZEqbH6EtxTdEY1Ng3nOBEUWGNXBBvCGQ1Rbuqlv4K_NSvlXjpGvhJTjOd-mwVyCRXZnVhUnaIfElGOhli_3RCiHR_FX2O9DpPnZL_njkYioDUMNYr87zuoLFTlgwS4_w3IeXWNvbOH37=" /><br />
<br />
<br />
Uzi thường sử dụng loại đạn : 9x19mm Parabellum, .22 LR, .45 ACP, .41 AE. Trọng lượng: 3.5 kg Dài: 650mm hoặc 470 mm Độ dài nòng : 260 mm. Súng có tốc độ bắn 600 viên/phút, tốc độ đạn 400 mét/giây tầm sát thương hiệu quả trong vòng bán kính 200m vì thế nó rất thích hợp cho những nhiệm vụ như chống khủng bố, chống bắt cóc, tống tiền chiến đấu trong địa bàn hẹp như khu dân cư, trung tâm thành phố.<br />
<br />
<br />
<b>FN P90</b><br />
<br />
FN P90 là một loại súng tiểu liên thuộc loại vũ khí phòng vệ cá nhân được thiết kế bởi nhà sản xuất vũ khí FN Herstal của Bỉ vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990. Tên của vũ khí là viết tắt của dự án 90 (Project 90), dùng để xác định một hệ thống vũ khí mới cho năm 1990. P90 ban đầu được thiết kế như là một súng cầm tay nhỏ gọn nhưng mạnh mẽ cho những người lái xe, những người điều hành các nhóm phục vụ quân nhu, hỗ trợ nhân viên, lực lượng đặc nhiệm và các đơn vị chống khủng bố.<br />
<br />
<br />
<img src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEi0sFrzRIqMc_36GSvId1CySc-SFuJ4Lk9YhSI2NYLXCXqE_AlIcVzHDRVCn5fLLBKdtle6zRAaAsHVLGz4CphN0YiGACxzXCpt1bHss8m6Z-seuAqsFlReCz1zidbpyoa-jOcv6Ji3VpJa4va5w8n70v7vf6CckohOhCGh37fEW3o3mO8PwPZ7RhElAjU=" /><br />
<br />
<br />
P90 sử dụng cơ chế nạp đạn bằng phản lực bắn với thoi nạp đạn đóng. Để giảm trong lượng và chiều dài P90 sử dụng thiết kế băng đạn gắn phía sau và khung cùng hầu hết các chi tiết làm bằng nhựa chịu lực. Hộp đạn chứa được 50 viên với hai hàng. Và để súng trở nên nhỏ nhất có thể P90 sử dụng thiết kế đặc hộp đạn nằm dọc trên thân súng với đạn được xếp nằm ngang theo chiều rộng của súng. Hộp đạn có một rãnh xoắn ốc ở đầu để viên đạn theo đó được đẩy xoay 90 độ xuống khoang chứa đạn.<br />
<br />
P90 có thiết kế báng súng nhỏ gọn, tay cầm làm bằng polymer và hợp kim gia cố. Vũ khí chứa một số tính năng cải tiến trong đó có băng đạn gắn phía trên và đạn 5.7x28mm còn biết với tên SS90 dành riêng cho loại súng này để có thể tăng khả năng xuyên thủng qua áo giáp hơn đạn của súng ngắn thông thường.<br />
<br />
<br />
<img src="https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEixWdwZw5G0AMDMXf-QMpV9npD4jjdJ0-99Ietyz2gMTjprxcJU0ezXT3Zu81Pd6ByBAimvdXF5cQcEjrSdUrEhRD1LzSUPKENDVEIvVBrq2vLPJxgmT04KQp9cBYawaKFEqq1JJvbT5oCFG-JtFbaLPAIyicrnTd6IJdo=" /><br />
<br />
Súng có chiều dài 500mm, cân nặng 2.5kg. Sử dụng đạn 5.7x28mm với hộp đạn 50 viên, tốc độ bắn 900 viên/phút với tầm bắn hiệu quả dưới 200m.<br />
<br />
P90 hiện đang được sử dụng trong quân đội và lực lượng cảnh sát tại hơn 40 quốc gia trên toàn thế giới cũng như bởi hơn 200 đơn vị thực thi luật pháp cùng một số lực lượng bí mật tại Hoa Kỳ. Kiểu PS90 dùng trong thể thao này cũng trở nên phổ biến với các xạ thủ là dân thường.<br />
<br />
<b><i>Nguồn : genk.vn</i></b></div>
<!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2Fgenknews.vcmedia.vn%2F2013%2F7-0ab05.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEhakI1uRXCa1JVaxu5j3bXjplOnczdnzpXWL8u9D1XNVnZDaNh-Al-WlWliFIWKwK3A3KBhFWruBnFKQLBVe3OAotDmSfp7h-CmbVZLSLzcJvfvJ7kuJYV5Kg1tnI5Bf11KP6TgUUwC3e5HTA=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2Fgenknews.vcmedia.vn%2Fthumb_w%2F640%2F2013%2F1-uzi9-1386819509191.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEjxgir1bmdL38OY2aIFz32LbBYI__d0RBAtfOxhArWc3NVDaRDj0wMyhaV09f_qMJ_Mm2-gHQ8qXD3nScCmv9XDcrEFELVX0N8wdhiKIjQyTmd69B3cyh5XmwpfVyKsYiQChlN7BrsBgYz-A8dIljXq0zVqY-6FKDK7dHDyJIeCbko4R3U=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2Fgenknews.vcmedia.vn%2Fthumb_w%2F640%2F2013%2F1-heckler-and-koch-hk-mp5-1386819413853.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEjaSbl71qcnFp6Pr_mbpRbUJ18f5devJySGFAiN_JfqpNw_J5nOByoUXEYcl1uce5ExwKU43UtFdeOFdmF3w3CxENfFIRLdkNORR7_Y6g4E2C1iKzlROF5ZLhYdj6wU0JSq2R_o2ZeVDQOFWqkK7zoY2msSML3SsZmbv9kfyHCGku6N4zN-NFpIzTwY6ZDSFo_6rE49kcZ-=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2Fgenknews.vcmedia.vn%2Fthumb_w%2F640%2F2013%2F1-1440-hk-ump-01-1386819459695.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEh2ya5Ryzd37lVsGc38sRbBbNTMDnQeC7adrqrEHdIpZ-ZrMjhyLomDprcqWUr148OMGNW2kAlluq-dttp4JIinxHYZQNTGmG8VG2Yp94323_hyphenhyphenQ5Oe6tnzsm60Ip3uTcwz8ikMhRWvBiHxR2dvMjMgaTbMC9ci4ReNotU1XkfVIKLGNjTrJ7dGkIuQx3Fb=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2Fgenknews.vcmedia.vn%2Fthumb_w%2F640%2F2013%2F1-1369673004704-1386819576070.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEi0sFrzRIqMc_36GSvId1CySc-SFuJ4Lk9YhSI2NYLXCXqE_AlIcVzHDRVCn5fLLBKdtle6zRAaAsHVLGz4CphN0YiGACxzXCpt1bHss8m6Z-seuAqsFlReCz1zidbpyoa-jOcv6Ji3VpJa4va5w8n70v7vf6CckohOhCGh37fEW3o3mO8PwPZ7RhElAjU=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2Fgenknews.vcmedia.vn%2Fthumb_w%2F640%2F2013%2F1-uzi-g-1386819546702.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEgKgqrAWcVqd-NZbpZyN_2Yah5UUCcvppOKsGARZEqbH6EtxTdEY1Ng3nOBEUWGNXBBvCGQ1Rbuqlv4K_NSvlXjpGvhJTjOd-mwVyCRXZnVhUnaIfElGOhli_3RCiHR_FX2O9DpPnZL_njkYioDUMNYr87zuoLFTlgwS4_w3IeXWNvbOH37=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2Fgenknews.vcmedia.vn%2F2013%2F6-0ab05.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEgEhSQOBIHEW3pNlkCZDf4rqx0LfOPJcd64ATnAXPSo_FyZy5EZztr6VkUzDf00pXIKf9u4I67FkifX0MATfR4y4EthbP5la5bHqopDa81SXf5yaOMllCqSykl0suEHT2iFdzEJJVzhO7whwQ=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2Fgenknews.vcmedia.vn%2F2013%2F1-pltkgtu-1386819613046.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEixWdwZw5G0AMDMXf-QMpV9npD4jjdJ0-99Ietyz2gMTjprxcJU0ezXT3Zu81Pd6ByBAimvdXF5cQcEjrSdUrEhRD1LzSUPKENDVEIvVBrq2vLPJxgmT04KQp9cBYawaKFEqq1JJvbT5oCFG-JtFbaLPAIyicrnTd6IJdo=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2Fgenknews.vcmedia.vn%2F2013%2F5-0ab05.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEhEudR7YChstQNGnPgt9Zs5slEzvmses90m8o0VFqul5v2_MyIcF5SUp_r-fPGJ-m74A1drcZA0m3RIUo5HBxByHVkqvYdX-e-JU80wQYEjeHkH_pMez6Ue6_R9bAN4_SKcbEh928IjbJYI_g=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2Fgenknews.vcmedia.vn%2F2013%2F4-0ab05.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEi3ig_j0_G2Zm6ZdUMN6-IhJhGy28NFBRPC50BTQUgY9Y_MuW8tW46y4sP4p9Of-IWhtjB5HF_slZzlfPXJd_nKPP6IRElvZiEXaStevr-Rqb26KOwEVjxlGBQ4n0jpIfZGeyl5fIGTI6eSNg=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2Fgenknews.vcmedia.vn%2F2013%2F1-0ab05.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEgsdmzlv0NdlTtenHEMV2IfOdTMBY0gCBbF6cfEnV7DKtxrhPZ-_toOyzqnmUWdNHDfGXo7oo1RsBfjcssuvfhnKcgKQibasRNIbqnKotHM12qqlXtyJQk7AGiBi6yHcBQ9b9-FxQZxvEq1AA=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2Fgenknews.vcmedia.vn%2F2013%2F2-0ab05.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEi7UF0RUzI6-vrCzSjXvb0rH9ocMJ5_GWVfsb3lTAB-WuoiH3qRBVC1ENLegqBpuLC3yDLPWib_1D4Dkf3IKS-Ju6SwGFjNALQpoWvtRvcE9WA27iNVpgUOT679SDv7z1g0P9INpMb25o3kHg=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2Fgenknews.vcmedia.vn%2F2013%2F3-0ab05.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEjtCooNaXyAdOfpSmmSKosPstTfddsOnBkkgPsSOtzPjgzIl2BYWgNx3bhAOW2tZQ42XlBmwADcfBJtyMHDy0JncDZzyklBj5pG9XXLAuevT2zZ537mULjni8f7BcSa4VRAPSJltztDd_zcmA=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2Fgenknews.vcmedia.vn%2F2013%2F8-0ab05.JPG&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEiOpl9JYUC2XBwbgf2B9AiOw0Tqg7-C2OqlY39mKyQR_t33bjsExxv0TcoDCgWypya2D5u5YUcoTsaKm9d641VMT9b1QRZeRmtuzvtOS0kqsTLrgFq_1z-UXo6iKnqn8cyHxGBSPrEdjqo0xg=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2Fgenknews.vcmedia.vn%2F2013%2F1-lg-ump-7-1386819485414.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEjD8aet-SWo9WI3lBgdxKX6D1Rz56Hd1sUVEf_vQ87mmgur68UBEnn3tM22JIaGeYeARvY3P-Q-frIkQEy1UCiyfot1OARbsB6JUrwXNmOmtGSU2eLqujSy4kd8U8WLm5ANKq8p308ljZKj07SAMiaarAWBZfXOe-noHmqC=" --><!-- Blogger automated replacement: "https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2Fgenknews.vcmedia.vn%2F2013%2F1-mp5a5-1386819428999.jpg&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*" with "https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEgrrKoabXeJ26iwrvrEXGuCN047T9oFMD6q1wznWhOzUNzP44W7NpqYkJlbhPxdun8klV761We4h6gT-L5V5eoSpS55Jpx3S9Ww3r6iiFFVP-ACUsEQrN22T81FxgqFFdyPqBMImbxMMegnooJYUmmtH3ES8jZtbeYK=" -->Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-34508914678021979202014-02-13T23:27:00.000-08:002014-02-13T23:30:21.824-08:00Chuyện ở Cao LãnhTùng Giang là phó giám đốc một công ty chuyên cung ứng thiết bị trường học. Công việc của anh phần nhiều là đi tỉnh, gặp gỡ, trao đổi họp hành với các sở ban ngành để bàn thảo hợp đồng. Do tính chất công việc nên anh đi rất nhiều, uống cũng nhiều.<br />
<div>
<br />
Sáng ngày 14 đầu xuân Giáp Ngọ anh ngồi xe chạy xuống thanh phố Cao Lãnh thương thảo đơn hàng đầu năm. Công ty đang rất cần đơn hàng quan trọng này nên trong xe anh hình dung trước các cuộc gặp gỡ. Đầu tiên là buổi giới thiệu tại văn phòng Sở giáo dục thành phố, buổi trưa anh sắp xếp mời một số quan chức đi liên hoan tại nhà hàng sang trọng nhất thành phố. Đầu giờ, nếu mời được thì rủ các xếp ra khu du lịch Tràm Chim và có lẽ ở đó anh sẽ chủ động mời khách vui chơi tới tối. Đó là phần việc mà anh thường đảm trách - lo quan hệ với các đối tác- mà phần lớn là trải qua các cuộc nhậu tưng bừng ở nhà hàng, quán nhậu.<br />
<br />
Khi tài xế chở Tùng Giang về khách sạn thì đã quá khuya, anh lên phòng còn tài xế xin phép chạy qua ngủ nhà người quen. Anh không quá say, cảm thấy mệt nhiều hơn, chỉ kịp thay đồ rồi ngả vào giường ngủ vùi.<br />
<br />
Giang ngủ tới gần sáng thì có tiếng mở cửa phòng, vợ anh dắt thằng ku Long con anh ba tuổi bước vào “nó đòi lên ngủ với ba nè anh“. Anh thấy vui nhưng còn ngái ngủ “ ồ, con trai nhớ ba hả con, cục cưng ngoan quá”. Miệng nói thế nhưng anh vẫn nằm nghiên không trở mình, vợ anh hình như chỉ đứng ngoài cửa còn thằng ku phi thẳng lên giường vòng tay ôm lấy ba cười nứt nẻ. Tiếng cười con trẻ làm anh tỉnh hẳn, anh xoay sang nhìn con trai,</div>
<div>
<br />
“ba, con muốn lên chơi với ba”<br />
<br />
“ uh, nhưng mà ba muốn ngủ tiếp”<br />
<br />
“con kéo mềm không cho ba ngủ nha”<br />
<br />
“à, con trai ba quậy nhất nhà đúng không?”<br />
<br />
“con ngoan mà, ba mới quậy nhất nhà, con lấy súng bắn ba nha?”<br />
<br />
“thôi đừng bắn ba, ba sợ lắm”<br />
<br />
“con kêu công an bắt ba luôn nha?”<br />
<br />
“thôi đừng bắt ba, ba ngoan mà”...<br />
<br />
Giang chơi với con được một chập thì thấy buồn ngủ lại, thằng cu lúc này cũng thiu thiu, hai ba con ôm nhau ngủ tiếp.<br />
<br />
Giang mở mắt thì trời sáng hẳn, nhìn sang cạnh không thấy cu Long đâu, nghĩ chắc vợ mình mang nó xuống phòng dưới nữa rồi. Anh thấy hơi nặng đầu, chắc hôm qua uống nhiều quá.<br />
<br />
Thay đồ, rửa mặt xong Giang xuống sảnh ăn sáng. Anh kêu tô hủ tíu và ly cà phê, châm điếu thuốc rít một hơi, cảm thấy tỉnh hẳn. Ngó quanh không thấy vợ, anh định móc điện thoại gọi xem vợ con ở đâu chợt thấy đầu óc choáng váng. Hôm qua tài xế chở anh đi Cao Lãnh một mình, vợ con anh còn ở Sài Gòn!<br />
<br />
Giang mở điện thoại, thấy nhiều cuộc gọi nhỡ, rồi mẹ anh gọi. Mẹ anh khóc, kể trong điện thoại tối qua vợ con anh đi công viên chơi bị đụng xe. Vợ anh đi xe máy bị xe Taxi chạy ẩu tông, kéo lê một đoạn chết tại chỗ. Cu Long con anh được mang vào viện cấp cứu nhưng không qua khỏi, chết đâu lúc 4-5h sáng.<br />
<br />
<br />
<div style="text-align: right;">
<i><b>Đàm Hà Khánh</b></i></div>
<div style="text-align: right;">
<i>Viết ngày Valentine 14/2/2014</i></div>
<br /></div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-8032242825510317912013-10-21T20:26:00.002-07:002013-10-21T20:28:46.013-07:00Hãy bỏ án tử hình<div style="text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj77uYxn00Ngwro49K0KderdIR20nGMJllZolQeZFc5_HpOhgAAWgFLTRw1HVP3YF8KR9BeUgD6GuFssOOqpRqalujGcy9d89L95eDYBWsuvtRZJQOd4Ooyiw9S9ra0LfuSOTpcFzekQ2s/s1600/no-death-penalty-button.jpg"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj77uYxn00Ngwro49K0KderdIR20nGMJllZolQeZFc5_HpOhgAAWgFLTRw1HVP3YF8KR9BeUgD6GuFssOOqpRqalujGcy9d89L95eDYBWsuvtRZJQOd4Ooyiw9S9ra0LfuSOTpcFzekQ2s/s1600/no-death-penalty-button.jpg" /></a></div>
<br /><div style="text-align: right;">
<b><i>Đặng Đình Cung</i></b></div>
<div style="text-align: right;">
<br /></div>
Chúng tôi kêu gọi những nhà lập pháp nước ta bãi bỏ án tử hình và ghi điểm này trong Hiến pháp. Trong khi chờ Quốc hội thông qua quyết định bãi bỏ án tử hình, chúng tôi xin Chủ tịch Nước, dựa trên khoản 12, điều 103 cuả Hiến pháp 1992 để quyết định đặc xá, đổi án tử hình thành tù chung thân cho tất cả các phạm nhân hiện đang chờ bị hành quyết.<br /><br />Đời sống của mỗi người phải được tôn trọng vì đời sống con người là thiêng liêng. Tôn trọng sự sống nâng con người lên trên hàng những con thú. Đây là một quan điểm tuyệt đối. Không ai có quyền giết người kể cả khi phải thừa lệnh cấp trên. Không một quyền lực nào, thông qua quy trình xét xử nào, có quyền quyết định sự sống chết của một con người. Án tử hình vi phạm đến quyền cơ bản của con người. Nó là một hình thức trừng phạt tàn bạo nhất, bất nhân nhất và đê tiện nhất.<br /><br />Dù dưới hình thức nào chăng nữa, giết một người không phải là một hành động nhân đạo. Giết một phạm nhân là không cho người đó khả năng chuộc tội, sửa lỗi, ăn năn và cải thiện. Giết một phạm nhân là vĩnh viễn ngăn cản xã hội có cơ hội cải tạo một người xấu thành một người tốt. Một trọng tội tạo ra một số nạn nhân làm đau khổ gia đình bạn bè của các nạn nhân đó. Nhưng một phạm nhân đã bị hành quyết cũng để lại một gia đình và một số bạn bè. Giết một phạm nhân là cộng thêm một nạn nhân nữa làm thêm một số người khác đau khổ. Ngoài ra, những nghiên cứu về tâm thần học đã chứng minh rằng đao phủ và những người phải chứng kiến một vụ hành quyết cũng bị tác động tâm lý có thể dẫn đến sự điên cuồng.<br /><br />Hệ thống tư pháp có thể sai lầm. Nếu đã giết một người rồi sau đó nhận thấy người đó bị xử oan thì không thể sửa chữa lại được nữa. Hệ thống tư pháp không công bằng. Người giầu mạnh có khả năng thuê người bào chữa giỏi trong khi đó kẻ hèn yếu thì có ít khả năng bào chữa hơn. Hệ thống tư pháp cũng không kiên định. Một tội được xét là đáng xử tử tùy nơi và tùy thời điểm lịch sử. Thời Trung cổ bắt một con thú trong rừng một chúa tể là bị xử tử. Thế kỷ trước, chống lại ý kiến của Stalin là bị xử tử. Thời Pháp thuộc ở nước ta buôn nha phiến là độc quyền của Nhà nước Bảo hộ, nhưng bây giờ thì buôn nha phiến ở Việt Nam và vài nước khác là có thể bị kết án tử hình. Ở đa số các nước, nếu bị kết tội hối lộ hay tội trốn thuế thì phải trả lại thiệt hại của Nhà Nước và lãnh vài tháng đến một hai năm tù. Với tội danh này ở Việt Nam hay ở Trung Quốc thì có thể bị kết án tử hình. Với những yếu kém đó của ngành tư pháp thì tại sao lại có thể thi hành một án không thể thay đổi được nữa ?<br /><br />Công lý có chức năng bảo đảm an ninh hài hòa cho xã hội chứ không có chức năng trả thù. Giết chết một phạm nhân là một hành động trả thù. Giết chết một phạm nhân không phải là một giải pháp bảo vệ xã hội vì hành động này là một bạo lực và một bạo lực bao giờ cũng sinh ra bạo lực khác. Có người gây trọng tội vì tình, trong một tình huống người đó không thể suy nghĩ một cách lô–gíc. Những nghiên cứu về tội phạm học cho thấy tỷ số trọng tội giảm khi tỷ số tội phạm được làm sáng tỏ gia tăng và hệ thống tư pháp xử công minh, mau chóng và nhất quán còn án tử hình thì không có tính cách can ngăn như nhiều người tưởng. Các nhà khoa học nhận thấy những tiểu bang Mỹ đã bãi bỏ án tử hình (abolitionist States) có tỷ số trọng tội ít hơn so với những tiểu bang vẫn còn giữ án tử hình. Hơn nữa, tỷ số này đã giảm đi từ khi Canada huỷ bỏ án tử hình.<br /><br />Bãi bỏ hoàn toàn án tử hình là trào lưu của thế giới bất luận hệ thống tư pháp, truyền thống, tục lệ và tôn giáo. Người Phật tử không giết hại. Đa số các tôn giáo khác cũng đã kêu gọi bãi bỏ án ghê tởm đó. Đạo Do Thái bãi bỏ từ năm 30 sau công nguyên, hầu hết các giáo hội Tin Lành kêu gọi bãi bỏ từ đầu thế kỷ XX và giáo hội Ki Tô kể từ hội nghị giám mục Vatican II (năm 1969 Nhà nước Vatican bãi bỏ án tử hình cho tất cả các tội danh). Năm 1980, Hội nghị Hồi giáo Thế giới và Liên hiệp các Luật gia Ả rập kêu gọi bãi bỏ án này. Năm 2002, Tòa án Hình sự Quốc tế tuyên bố sẽ không tuyên án tử hình kể cả cho những tội ghê tởm nhất như là tội chống lại nhân loại, tội diệt chủng, tội ác chiến tranh. Ngày 18 tháng chạp 2007, Đại hội Liên Hiệp Quốc thông qua nghị quyết 62/1494 kêu gọi ngưng hành quyết tội phạm trên thế giới. Hơn 150 nước đã bãi bỏ hay không thực thi án này nữa. Năm 2012, trong số 193 thành viên Liên hiệp quốc thì có 173 nước đã không hành quyết ai.<br /><br />Tử hình không phải là tư pháp hình sự. Nó là sự thất bại của ngành tư pháp. Nó không hữu hiệu chống phạm pháp. Nó không cho phép chữa lại nếu tòa tuyên án sau này thấy rằng đã xử sai. Nó không thể và không phải đơn thuần là một công cụ của ngành tư pháp. Nó là một vi phạm đến quyền cơ bản của con người ghi ở điều 3 và 5 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Nó là một hành động ngược với giáo lý của nhân loại. “Tước đời sống của một người là một quy trình quá triệt để, quá bất nghịch để một con người có thể bắt một con người khác phải chịu kể cả khi đã xuyên qua một trình tự tư pháp” (Ban Ki–moon, Tổng thư ký Liên hiệp quốc).<br /><br />Chúng ta đang đăng cai vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Đã đến lúc chúng ta bãi bỏ án tử hình để thích nghi với Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và gia nhập cộng đồng các quốc gia văn minh.<br /><br /><br /><div style="text-align: right;">
<i>Đặng Đình Cung</i></div>
<br /><b>Chú thích :</b><br /><br />Trong số các trí thức Pháp biện luận chống lại án tử hình, chúng tôi xin giới thiệu nhà văn Victor Hugo, nhà văn Albert Camus và luật sư Robert Badinter. Đặc biệt bài “Le dernier jour d’un condamné” của Victor Hugo đã làm mềm lòng những người sắt đá nhất.Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-16060824102789849842013-10-21T20:22:00.002-07:002013-11-01T20:02:03.983-07:00Hãy cấm xe máy !<br />Có thể nói, không một quốc gia nào trên thế giới có một “nền văn minh xe máy” độc nhất vô nhị như Việt Nam.<br /><br /><br /> <a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjxjtlV9eG-eBcDg9YzNxIRsuxwC3Mzclifwcgv-NXC1aABW3rHGZm1npGCtkpRSxt-U1ssKgyY5P5f2AuB2I_R1YVq8CIGWLh_QYrXzJYmQNMhXgOwL9VBwqNcwEsK4SnGI6iHIOWaHqs/s1600/131018110049_scooters_in_vietnam_464x261_getty.jpg"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjxjtlV9eG-eBcDg9YzNxIRsuxwC3Mzclifwcgv-NXC1aABW3rHGZm1npGCtkpRSxt-U1ssKgyY5P5f2AuB2I_R1YVq8CIGWLh_QYrXzJYmQNMhXgOwL9VBwqNcwEsK4SnGI6iHIOWaHqs/s320/131018110049_scooters_in_vietnam_464x261_getty.jpg" /></a><br /><br /> Nói như vậy cũng không hề ngoa ngôn. Sự thật là xe máy đã tác động xấu đến toàn bộ nền kinh tế, văn hóa, quy hoạch đô thị, thói quen, đạo đức, cách sống của người dân Việt Nam chứ không chỉ là vấn đề về an toàn giao thông.<br /><br /> Xe máy, đối với nhiều quốc gia, được coi là một phương tiện giao thông nguy hiểm, không khuyến khích sử dụng, thậm chí bị cấm ở nhiều thành phố. Với vận tốc có thể bằng ô tô, nhưng sự an toàn lại chỉ như xe đạp, nó thực sự là một hung thần trên đường.<br /><br /> Tai nạn hàng ngày hàng giờ xảy ra trên khắp các nẻo đường Việt Nam đã chứng minh điều đó.<br /><br /> Không thể phủ nhận, xe máy, nếu xét trên góc độ tiện dụng, cơ động, linh hoạt, thì sẽ là phương tiện giao thông tuyệt vời không có đối thủ cạnh tranh. Nhưng hãy cùng nhau phân tích trên nhiều khía cạnh khác.<br /><br /><b>Quy hoạch và xe máy</b><br /><br /> Chính phủ dường như bế tắc trong việc quy hoạch đô thị. Hiện nay hạ tầng kiến trúc lôm côm, nhà ống mọc lên như nấm không có cách gì khống chế. Những ngõ sâu hun hút ngoằn ngoèo chen chúc với những chợ tạm, chợ cóc chật chội bẩn thỉu. Hàng quán thi nhau đua nở lấn chiếm lòng lề đường.<br /><br /> Nét đẹp đô thị của những con phố sạch sẽ phong quang với những hàng xe hơi, xe bus trật tự nối đuôi nhau là một viễn cảnh xa vời đối với các đô thị Việt Nam.<br /><br /> Vì sao vậy? Nguyên nhân đến từ xe máy. Chỉ xe máy mới có thể luồn lách đến mọi ngóc ngách, dẫn đến việc khuyến khích người dân làm nhà trong ngõ mà không cần tuân thủ quy hoạch theo tiêu chuẩn chung.<br /><br /> Thậm chí có những ngõ nhỏ tới nỗi chỉ đảm bảo cho một chiều lưu thông vẫn tồn tại như một minh chứng cho sự tiện lợi không gì thay thế được của xe máy.<br /><br /> Chỉ có xe máy mới có thể tùy tiện tấp vào lề đường để chủ nhân vẫn ngồi trên yên, một chân chống xuống đất, thoải mái mặc cả mớ rau, con cá cho kịp bữa cơm chiều, tạo điều kiện cho sự tồn tại của chợ tự phát, mặc cho cơ quan chức năng ra sức dẹp hàng ngày.<br /><br /> Chỉ có xe máy mới dễ dàng dựng la liệt ngay trên vỉa hè để mua bán trao đổi hàng hóa, chiếm hết chỗ dành cho người đi bộ. Và như vậy, xe máy trở thành rào cản cho quy hoạch đô thị hiện đại ở Việt Nam.<br /><br /> Phải đi xe máy trong những sáng mùa đông lạnh cắt da thịt, hoặc trong những cơn mưa trút nước tầm tã, hay những trưa hè nóng đổ mồ hôi, giữa biển xe máy san sát chen vai thích cánh, khói độc tỏa mịt mù, âm thanh đinh tai nhức óc, mới thấy hết sự khổ sở mà ai cũng phải chịu đựng.<br /><br />Điều đó tác động dần dần làm cho con người mất đi sự thông cảm lẫn nhau.<br /><br /> Trên đường, những gương mặt hồ hởi tươi sáng hiếm dần, thay vào đó là sự cau có, bẳn gắt. Chỉ cần va quệt nhẹ là sẵn sàng lao vào sống mái. Không thiếu những vụ ẩu đả, thậm chí giết người xuất phát từ những nguyên nhân rất nhỏ mà báo chí đăng tải hàng ngày.<br /><br />Khi ngồi trên xe máy, những người đàn ông không thể lịch lãm trong bộ complet, phụ nữ khó mà váy đầm dịu dàng thanh lịch. Mặc đẹp làm gì khi mà đằng nào cũng phải chùm bên ngoài chiếc áo chống nắng dài tới gót chân?<br /><br /> Mái tóc uốn bồng bềnh mà làm gì khi phải đội lên đầu những “nồi cơm điện” nặng nề cục mịch?<br /><br />Điều này tưởng không quan trọng, nhưng lại liên quan khá nhiều đến văn hóa ứng xử.<br /><br /> Thật dễ hiểu. Nếu mọi người ai cũng ăn mặc đàng hoàng lịch sự thì đối xử với nhau hẳn sẽ lịch sự đàng hoàng hơn.<br /><br /><b> Thói quen và lối sống</b><br /><br /> Điều đáng lo ngại nhất là tư duy xe máy đã ăn sâu vào tâm lý của người Việt. Phần lớn người dân không thể hình dung họ sẽ sinh hoạt như thế nào nếu thiếu xe máy. Một sự lệ thuộc hoàn toàn.<br /><br /> Thậm chí chỉ cách 100m họ đã phải cần đến xe máy. Việc vào siêu thị mua thực phẩm sạch trở thành vô lí khi mà chỉ cần ngồi lên xe máy, phóng vèo ra chợ cóc đầu đường là có thể mua bất kỳ loại thực phẩm gì.<br /><br /> Thực phẩm chợ cóc thì không hề tuân thủ an toàn vệ sinh. Và hậu quả về ăn uống mất vệ sinh thì không nói ai cũng biết.<br /><br /> Cũng chính vì sự tiện lợi nhãn tiền của xe máy mà mọi người mất dần thói quen đi bộ. Không có cảnh đoàn người sải bước trên vỉa hè với tác phong công nghiệp hiện đại như ở các quốc gia khác. Vì thật “đáng tiếc” là ở Việt Nam xe máy có thể phóng vào tận cổng cơ quan.<br /><br /> Cũng không ở đâu có nghịch lý như Việt Nam khi coi chiếc xe máy không chỉ đơn thuần là phương tiện giao thông, mà trở thành của để dành, thậm chí là căn cứ để phân biệt đẳng cấp xã hội. Từ đó đẩy tới một nghịch lý tiếp theo là giá một chiếc xe máy, @, SH chẳng hạn, có thể đắt gần bằng một chiếc xe hơi loại trung bình tại các nước trong khu vực.<br /><br /> Việc thả nổi cho thị trường xe máy cũng đồng thời khiến cho nền công nghiệp ô tô không thể phát triển. Dẫn đến một nghịch lý khó có thể chấp nhận được nữa là, giá thành ô tô gần như đắt nhất thế giới tại một quốc gia nghèo.<br /><br /> Theo thống kê, mỗi năm Việt Nam có khoảng 15.000 người chết vì tai nạn giao thông. Trong đó liên quan đến xe máy là nguyên nhân hàng đầu.<br /><br />Chỉ có xe máy mới dễ dàng bỏ qua đèn đỏ, luồn lách, vượt làn, phóng nhanh, vượt ẩu… Điều tệ hại là, sự vi phạm giao thông công cộng của xe máy diễn ra quá thường xuyên, lâu ngày thói xấu thành quen thuộc đối với tất cả mọi người.<br /><br /> Như vậy, xe máy vô hình chung, góp phần đẩy nhanh sự xuống cấp về ý thức an toàn giao thông vốn đã quá kém của người dân Việt Nam.<br /><br /> Nạn giật đồ giữa ban ngày thật nhức nhối, kinh hoàng cho mọi người, nhất là phụ nữ. Chính xe máy đã đẻ ra những kẻ côn đồ cướp giật manh động đó, bởi nó là phương tiện gây án hữu dụng.<br /><br /> Bất kỳ sử dụng phương tiện nào khác đều không khả thi để giật đồ. Cũng có thể nói không ngoa là, nạn trộm chó cũng nhờ sự tiện lợi của xe máy mà có thể lộng hành, thay vì hoạt động nhỏ lẻ như trước.<br /><br /><b>Phóng xe ngược chiều</b><br /><br /> Giờ đây khi đã hình thành “nền văn minh xe máy”, nếu ai đó nêu ra ý tưởng “Cấm xe máy”, lập tức mọi người sẽ nhìn anh ta lạ lùng như người sao Hỏa.<br /><br /> Câu hỏi sẽ bật ngược lại: “Cấm xe máy thì đi bằng gì?”. Rồi viện lý do muôn thuở “nước ta còn nghèo, người dân lấy đâu ra tiền mua xe hơi”, “nhà nước chưa thể đủ tiền phát triển hệ thống giao thông công cộng để đáp ứng người dân”…<br /><br />Vậy hãy nhìn sang các nước láng giềng gần nhất như Campuchia, Lào, Miến Điện…và tiêu biểu là thủ đô Yangon của Miến Điện.<br /><br /> Không giàu hơn chúng ta, dân trí cũng không hơn, nhưng họ đã thực hiện thành công giải pháp cấm xe máy để có được đô thị yên lành, sạch sẽ và an toàn.<br /><br />Rõ ràng xe máy làm kìm hãm sự phát triển xã hội về mọi mặt. Và Việt Nam sẽ đi ngược lại với xu hướng chung của thế giới nếu còn duy trì “nền văn minh xe máy” như thế này.<br /><br /><div style="text-align: right;">
<b><i>Trường Giang</i></b> (<a href="http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2013/10/131018_vn_van_minh_xe_may.shtml">Xe máy VN 'lao ngược chiều thế giới'</a>)</div>
<h4>
VN và nền văn hóa nhà mặt tiền</h4>
<div style="text-align: right;">
<b><i>Nguyễn Văn Đặng</i></b></div>
<br />Nếu như ai đó nhận định xe máy cản trở quy hoạch đô thị thì ngược lại, chính tính ưu việt nhà mặt tiền tạo điều kiện thuận lợi cho nhu cầu thiết thực của người sử dụng xe máy dẫn đến phát triển “nền văn hóa xe máy”.<br /><br />Khác với các quốc gia đang phát triển, tại Việt nam, hầu hết các nhà mặt tiền đều có giá rất cao. Sở dĩ như vậy vì nhà mặt tiền tận dụng, khai thác tối đa cho việc kinh doanh. Từ mua bán lẻ tất cả các mặt hàng “thượng vàng hạ cám”,các dịch vụ ăn uống, văn phòng công ty, trường học,… Điều này đã tạo thành nếp sống “văn hóa nhà mặt tiền”.<br /><br />Việc dàn trải kinh doanh trên phục vụ đa số cho các nhu cầu cấp thiết sinh hoạt hàng ngày của người dân, từ thôn quê, vùng ven vào thành phố, từ thành phố nhỏ đến thành phố lớn và những người có nhu cầu trong khu vực.<br /><br />Thực tế người ta mua sắm theo yêu cầu hàng ngày không thể đi bộ một vài cây số, không thể đi phương tiện giao thông công cộng như xe buýt, mà chỉ có văn minh xe máy mới đáp ứng hữu hiệu và thuận tiện. Kéo theo hình thành những vỉa hè làm nơi để xe máy, tiện lợi cho việc mua sắm nhưng lại cản trở giao thông, người đi lại.<br /><br />Thực tế tồn tại là trụ sở các cơ quan từ trung ương đến địa phương cũng bố trí rải rác, manh mún ở mặt tiền các tuyến đường trong thành phố. Các phương tiện giao thông công cộng không đáp ứng được yêu cầu đi lại hàng ngày thì việc sử dụng xe máy là nhu cầu tất yếu.<br /><br />Chưa kể các trường học từ tiểu học, phổ thông đến cao đẳng, đại học cũng chiếm mặt tiền trong thành phố. Việc chở con đi học trong một vài cây số nếu không sử dụng xe máy thì dùng phương tiện gì cho phù hợp. Giờ tan học là ác mộng của tất cả các phương tiện giao thông đi qua khu vực này.<br /><br /><b>"Văn minh mặt tiền"</b><br /><br />Nguyên nhân sâu xa dẫn đến nạn kẹt xe, văn hóa mặt tiền góp phần không nhỏ.<br /><br />Khẳng định rằng, nếu quy hoạch đô thị tập trung, hợp lý cho các đối tượng trên, khai thác chiều cao, bỏ văn hóa mặt tiền, tăng cường phương tiện giao thông công cộng và lộ trình các phương tiện này đáp ứng di chuyển hợp lý, cũng như hình thành tập trung các khu vực buôn bán lẻ, áp dụng và nhân rộng mô hình tương tự cửa hàng tạp hóa 7 Eleven cho các khu vực dân cư thì sẽ không có các vấn nạn trên.<br /><br />Cần thực hiện một cách đồng bộ và quyết tâm thì lượng xe máy tham gia giao thông trong thành phố sẽ giảm rõ rệt, giảm ách tắc giao thông, phát huy dịch vụ giao thông công cộng, tạo thói quen mới cho người dân đi bộ khoảng cách gần.<br /><br />Sự thay đổi này là khả thi, không tốn nhiếu thời gian, xuất hiện thêm nhiều quỹ đất phục vụ dân sinh, môi trường.<br /><br />Nhất là tạo năng lực thông hành cao, giảm kẹt xe, làm tiền đề cho việc loại dần “nền văn minh xe máy, văn minh mặt tiền”.<br /><br />Nhưng ở Việt nam hiện tại, có thể chẳng ai ủng hộ việc này. Quan chức có địa vị cao trong xã hội họ cũng mang nặng tư tưởng mặt tiền, tậu vài nhà mặt tiền và muốn giữ bầu trời riêng cho cơ quan mình giữa trung tâm thành phố.<br /><br />Chính "Nền văn hóa nhà mặt tiền" của Việt nam đã tạo ra nền “văn minh xe máy” và cản trở sự phát triển của cộng đồng.<br /><br /><br /> <br /><div>
</div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-83023843569715242712013-10-14T00:41:00.000-07:002013-10-14T01:44:18.959-07:00Lời thoại đầu phim Scarface (1983)<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhJaT8r-P7FR4-KlxVpUdKYrbvTwh5bnR8JTTWDhsRilqZ3xLhvgpVB6Kmu38DmMrZcJiWhWXY_5GsYLMsjcntyXaBpXRLn5criGBKOimlUpgAswm4j0L1AI6hirP5x8NWdzWkXWYgKloE/s1600/vlcsnap-2011-08-24-12h16m19s190_786_poster.png" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="172" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhJaT8r-P7FR4-KlxVpUdKYrbvTwh5bnR8JTTWDhsRilqZ3xLhvgpVB6Kmu38DmMrZcJiWhWXY_5GsYLMsjcntyXaBpXRLn5criGBKOimlUpgAswm4j0L1AI6hirP5x8NWdzWkXWYgKloE/s400/vlcsnap-2011-08-24-12h16m19s190_786_poster.png" width="400" /></a></div>
<blockquote class="tr_bq" style="text-align: center;">
<i>Ở đâu ra cái sẹo ghê gớm này đây, Tony ?</i></blockquote>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<strong>Bối cảnh</strong>: Tháng 5 năm 1980, Fidel Castro cho mở cửa cảng Mariel cho phép người dân Cuba gặp gỡ thân nhân ở Mỹ. trong vòng 72 giờ đã có hơn 3000 tàu từ Mỹ sang đón người ở Cuba. Ngay lập tức Castro buộc các tàu quay trở lại mang theo toàn bộ những thành phần tị nạn. Khoảng 125000 người ti nạn cập bờ biển Florida trong đó ước tính có khoảng 25000 tội phạm hình sự các loại.</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<br /></div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
Tại phòng thẩm vấn/nhập cư trại tị nạn ở Florida các sĩ quan Nhập cư tra hỏi Tony Montana:</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<br /></div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em>Sĩ quan 1</em> : Mày tên gì ?</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Tony Montana</em>: Antonio Montana, còn ông tên gì?</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Sĩ quan 2</em> : Mày học tiếng Anh ở đâu, Tony?</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Tony Montana</em> : Từ ông già, ông ấy là người Mỹ giống như các ông, ổng cho tui xem nhiều phim Mỹ và tui học cách nói của Humphrey Bogart, James Cagney, tôi quý họ, tôi luôn nghĩ một ngày kia sẽ đến Mỹ</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Sĩ quan 2</em> :thế giờ ông ta đâu?</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Tony Montana</em> :chết rồi, ở đâu đó chẳng biết</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Sĩ quan 2</em> :còn mẹ?</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<br />
Tony Montana : chết luôn</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Sĩ quan 1</em> : thế mày làm gì ở Cuba, Tony?</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Tony Montana</em> : à, tôi làm xây dựng, chủ yếu là việc tay chân, tôi đã từng trong quân đội đấy</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Sĩ quan 1</em> : có người thân ở Mỹ ko Tony? anh em họ, anh rể, có ai ko?</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Montana</em> :ko có, chết hết rồi</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Sĩ quan 1</em> : Đã ở tù lần nào chưa Tony?</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Montana</em> : ở tù á, ko có đâu</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em>S</em><br />
<em>ĩ quan 1</em> : có ở viện tâm thần gì ko?</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Montana</em> : ồ cái đó thì có, trên tàu lúc ở biển đó</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Sĩ quan 3</em>: Ở đâu ra cái sẹo ghê gớm này đây, mèo cắn (eating pussy) hả?</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Tony Montana:</em> nghĩ sao mèo cắn có sẹo như vậy ?[cười] cái này là hồi tôi còn nhỏ? Mấy ông nên nhìn thằng nhóc đã gây ra cái này, giờ thì khó mà nhận ra nó luôn</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Sĩ quan 3</em> : (cầm tay Tony chỗ vết xăm) còn cái này?</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
Tony Montana: chẳng có gì, cái này hồi có bồ</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Sĩ quan 3</em> : bồ cục cứt, tao thấy mấy cái này nhiều rồi, đây là mật mã của mấy đứa trong tù, hình chĩa ba thì là một kiểu sát thủ đây, mày muốn nói cho tụi tao nghe hay là muốn vô khám đây Tony?</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Tony Montana</em> : dc rồi, tui nói, tui đã từng vô khám một lần, buôn Dollars, vụ lớn lắm</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Sĩ quan 3</em>: mày hài thật đấy Tony</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Tony Montana</em> :thật mà, buôn với mấy thằng du khách Canada</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em><br /></em>
<em>Sĩ quan 3</em>: hừm, mày làm gì, móc túi tụi nó hả?</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<br /></div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
(nói xong quay lưng bỏ ra ngoài, Montana đứng dậy, chửi toáng lên) : </div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<br /></div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em>Tony Montana</em> : mày là dân Cộng sản hả? mày thích thế hả? Bọn chúng nó suốt này bảo mày phải làm cái này, nghĩ thế kia. Mày có muốn trở thành con cừu ko? giống tất cả mọi người xung quanh ko hả?</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<br /></div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em>Sĩ quan 3</em> : Tao chẳng nghe cái thứ cứt này đâu</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<br /></div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em>Tony Montana</em>: Mày muốn làm việc suốt 8, 10 tiếng một ngày mà đéo dc cái gì ko? mày muốn có mật thám theo dõi mày khắp nơi, tất cả mọi việc mày làm, tất cả những gì mày nói ko? Phải ăn bạch tuộc ba bữa một ngày. Tao ăn tới nỗi râu bạch tuộc thò cả ra tai đây nè, còn đôi giày Liên Xô thì lủng lòi hết cả ngón chân ra, mày thích thế hả? Mày muốn tao chịu trận và ko làm gì à? Ê, tao dek phải tội phạm nghe chưa, dek phải ma cô hay dân trộm cắp gì hết. Tao là Tony Montana, trị nạn chính trị chạy khỏi Cuba và tao muốn quyền con người của tao ngay bây giờ!</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
(đá ghế) giống lời tổng thống Jimmy Carter, okey?</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<br /></div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em>Sĩ quan 1</em>: Carter nên nghe bài diễn văn này, thằng này khá thật. Cậu thấy sao, Harry?</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<br /></div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em>Sĩ quan 3</em>: tao dek tin cái cc gì hết , tất cả bọn chúng với tao đều như nhau. Tên khốn Castro thải bã lên đầu chúng ta. Mang thằng khốn nầy đến Trại Tự do để họ xem xét. Mang nó cút khỏi đây đi.</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<br /></div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 16px; padding: 0px;">
<em>Tony Montana</em>: Mày biết gì ko? Cứ gửi tao tới đâu chẳng dc, ko thành vấn đề. Chẳng có gì tụi bây hù mà Castro chưa từng mang tới cho tao đâu!</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 16px; padding: 0px;">
<br /></div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 16px; padding: 0px;">
-------------------------------</div>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 16px; padding: 0px;">
<br /></div>
<blockquote class="tr_bq">
Immigration Officer #1: Okay, so what do you call yourself? Tony Montana: Antonio Montana. And you, what you call yourself?Immigration Officer #2: Where'd you learn to speak the English, Tony?Tony Montana: Uh, in a school. And my father, he was, uh, from the United States. Just like you, ya know? He was a Yankee. Uh, he used to take me a lot to the movies. I learn. I watch the guys like Humphrey Bogart, James Cagney. They, they teach me to talk. I like those guys. I always know one day I'm comin' here, United States.Immigration Officer #2: So where's your old man now?Tony Montana: He dead. He die. Sometime. Somewhere.Immigration Officer #2: Mother?Tony Montana: She dead too.Immigration Officer #1: What kind of work you do in Cuba, Tony?Tony Montana: Ah, you know, things. I was, uh - This, that. Construction business. I work a lot with my hands. I was in the army.Immigration Officer #1: Any family in the States, Tony? Any cousins, brother-in-law, anybody?Tony Montana: Nobody. Everybody's dead.Immigration Officer #1: You ever been to jail, Tony?Tony Montana: Me? Jail? No way. No.Immigration Officer #1: Been in a mental hospital?Tony Montana: Oh, yeah. On the boat coming over.<br />
Immigration Officer #3: Where'd you get the beauty scar, tough guy? Eatin' pussy?Tony Montana: How'm I gonna get a scar like that eating pussy?[Tony smiles]Tony Montana: This was when I was a kid, ya know?Immigration Officer #3: Mm-hmm.Tony Montana: You should see the other kid. You can't recognize him.Immigration Officer #3: [forcing Tony to show a tattoo on his hand] And this?Tony Montana: Oh, that's nothing, man. That's for my sweetheart.Immigration Officer #3: Sweetheart, my ass! We've been seein' more and more of these. Some kind of code these guys used in the can. Pitchfork means an assassin or somethin'. You wanna tell us about it, Montana, or do you wanna take a little trip to the detention center?Tony Montana: [pause] Okay, you got me. I was in the can one time. For buying dollars. Big, big deal.Immigration Officer #3: That's pretty funny, Tony.Tony Montana: Well, that's true. It was a Canadian tourist.Immigration Officer #3: Hmm. What'd ya do? Mug him first?<br />
Tony Montana: You a communist? Huh? How'd you like it, man? They tell you all the time what to do, what to think, what to feel. Do you wanna be like a sheep? Like all those other people? Baah! Baah!Immigration Officer #3: I don't have to listen to this bullshit!Tony Montana: You wanna work eight, ten fucking hours? You own nothing, you got nothing! Do you want a chivato on every corner looking after you? Watching everything you do? Everything you say, man? Do you know I eat octopus three times a day? I got fucking octopus coming out of my fucking ears. I got the fuckin' Russian shoes my feet's comin' through. How you like that? What, you want me to stay there and do nothing? Hey, I'm no fuckin' criminal, man. I'm no puta or thief. I'm Tony Montana, a political prisoner from Cuba. And I want my fuckin' human rights, now![slams desk]Tony Montana: Just like the President Jimmy Carter says. Okay?Immigration Officer #1: Carter should see this human right. He's really good. What do you say, Harry?Immigration Officer #3: I don't believe a word of this shit! They all sound the same to me. That son of a bitch Castro is shittin' all over us. Send this bastard to Freedom Town. Let them take a look at him. Get him outta here.Tony Montana: You know somethin'? You can send me anywhere. Here, there, this, that; it don't matter. There's nothing you can do to me that Castro has not done.</blockquote>
<div style="font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 12.800000190734863px; line-height: 16px; padding: 0px;">
<br /></div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-70413188272284558922013-05-27T21:25:00.003-07:002013-05-30T03:16:54.683-07:00Ý kiến "hết ý kiến"<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">* Sáng 30/5 : đại biểu Lê Thị Nga – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội phát biểu : “<b><a href="http://www.blogger.com/*%20S%C3%A1ng%2030/5%20:%20%C4%91%E1%BA%A1i%20bi%E1%BB%83u%20L%C3%AA%20Th%E1%BB%8B%20Nga%20%E2%80%93%20Ph%C3%B3%20Ch%E1%BB%A7%20nhi%E1%BB%87m%20%E1%BB%A6y%20ban%20T%C6%B0%20ph%C3%A1p%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20ph%C3%A1t%20bi%E1%BB%83u%20:%20%20%E2%80%9CH%C3%A0ng%20ch%E1%BB%A5c%20n%C4%83m%20nay%20ch%C6%B0a%20th%E1%BA%A5y%20m%E1%BB%99t%20c%C3%A1n%20b%E1%BB%99%20l%C3%A3nh%20%C4%91%E1%BA%A1o%20n%C3%A0o,%20c%C3%B4ng%20ch%E1%BB%A9c%20n%C3%A0o%20b%E1%BB%8B%20gi%C3%A1ng%20ch%E1%BB%A9c,%20bu%E1%BB%99c%20th%C3%B4i%20vi%E1%BB%87c%20hay%20b%E1%BB%93i%20th%C6%B0%E1%BB%9Dng%20do%20l%E1%BB%97i%20%C4%91%E1%BB%81%20xu%E1%BA%A5t,%20th%E1%BA%A9m%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20ban%20h%C3%A0nh%20v%C4%83n%20b%E1%BA%A3n%20sai%20tr%C3%A1i%E2%80%9D">Hàng chục năm nay chưa thấy một cán bộ lãnh đạo nào, công chức nào bị giáng chức, buộc thôi việc hay bồi thường do lỗi đề xuất, thẩm định ban hành văn bản sai trá</a></b>i”</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 19px;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 19px;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 19px;">* </span><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 19px;">Ngày 27/5, b</span><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 19px;">ên lề cuộc họp tổ của các đại biểu Quốc hội, khi được hỏi về vấn đề giảm tải bệnh viện được người dân quan tâm Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến trả lời :"</span><a data-mce-href="http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2013/05/bo-truong-y-te-giai-quyet-qua-tai-benh-vien-phai-tu-tu/" href="http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2013/05/bo-truong-y-te-giai-quyet-qua-tai-benh-vien-phai-tu-tu/" style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 19px;"><b>Giải quyết quá tải bệnh viện phải từ từ</b></a><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 19px;">"</span><br />
<div style="text-align: center;">
<a data-mce-href="http://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2013/05/bo-truong-y-te-800891-1369709813_362x0.jpg" href="http://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2013/05/bo-truong-y-te-800891-1369709813_362x0.jpg" style="line-height: 19px; text-align: start;"><span style="color: black; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><img alt="bo-truong-y-te-800891-1369709813_362x0" class=" wp-image-2760 aligncenter" data-mce-src="http://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2013/05/bo-truong-y-te-800891-1369709813_362x0.jpg" height="160" src="http://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2013/05/bo-truong-y-te-800891-1369709813_362x0.jpg" style="border: 0px; display: block; margin-left: auto; margin-right: auto;" width="217" /></span></a></div>
<div>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span></div>
<div>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">* Sáng 27/5, khi thảo luận ở Quốc hội về việc đa số người dân "không quan tâm tên nước" Phó giám đốc Công an Quảng Nam Phạm Trường Dân phát biểu rằng: "</span><a data-mce-href="http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2013/05/chi-tieu-thuong-moi-quan-tam-den-doi-ten-nuoc/" href="http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2013/05/chi-tieu-thuong-moi-quan-tam-den-doi-ten-nuoc/" style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><b>Chỉ tiểu thương mới quan tâm đến đổi tên nước</b></a><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">"</span></div>
<div>
<div style="text-align: center;">
<a data-mce-href="http://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2013/05/pham-truong-dan.jpg" href="http://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2013/05/pham-truong-dan.jpg" style="line-height: 19px;"><span style="color: black; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><img alt="pham truong dan" class=" wp-image-2761 aligncenter" data-mce-src="http://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2013/05/pham-truong-dan.jpg" height="144" src="http://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2013/05/pham-truong-dan.jpg" style="border: 0px; display: block; margin-left: auto; margin-right: auto;" width="270" /></span></a></div>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 19px;"><br /></span></div>
<div>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 19px;"><br /></span></div>
<div>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 19px;">* Chiều 15/5, trả lời bức xúc của 23 hộ dân cùng ký đơn xin trả lại danh hiệu di tích quốc gia làng cổ Đường Lâm, Ông Trương Minh Tiến, Phó giám đốc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch nêu ý kiến " </span><a data-mce-href="http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2013/05/dan-duong-lam-xin-duoc-binh-yen/" href="http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2013/05/dan-duong-lam-xin-duoc-binh-yen/" style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 19px;"><b>Tôi muốn bà con bình tĩnh, đã chịu được 10 năm chẳng lẽ không chờ thêm một chút nữa</b></a><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 19px;">"</span><br />
<div style="text-align: center;">
<a data-mce-href="http://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2013/05/anh-ong-truong-minh-tien-23.jpg" href="http://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2013/05/anh-ong-truong-minh-tien-23.jpg" style="line-height: 19px;"><span style="color: black; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><img alt="anh-ong-truong-minh-tien-2(3)" class=" wp-image-2762 aligncenter" data-mce-src="http://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2013/05/anh-ong-truong-minh-tien-23.jpg" height="200" src="http://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2013/05/anh-ong-truong-minh-tien-23.jpg" style="border: 0px; display: block; margin-left: auto; margin-right: auto;" width="130" /></span></a></div>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 19px;"><br /></span></div>
<div>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 19px;">* Ngày 14/5/2013 trong buổi tiếpvới xúc cử tri khi được hỏi vì sao các nhà khoa học nói dự án Bo xít Tây nguyên </span><a href="http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2013/05/tong-bi-thu-noi-bo-xit-tay-nguyen-lo-la-chua-du-co-so/" style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 19px;">lỗ hàng chục triệu USD mỗi năm</a><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 19px;">, Tổng bí thư nguyễn Phú trọng trả lời " "Phải chờ hiệu quả thí điểm làm xong đến đâu đã. Bây giờ đang tính toán trên sổ sách và dự báo nên nói ngay là lỗ bao nhiêu hay có<b> </b></span><a href="http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2013/05/tong-bi-thu-noi-bo-xit-tay-nguyen-lo-la-chua-du-co-so/" style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 19px;"><b>lỗ hay không là chưa đủ cơ sở</b></a><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 19px;">"</span></div>
<div>
<div style="text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjXh8qmIAG6DF3_Fk_TN-0bAbQT_cYe4JM_l0Izo5YyO2vDFeGU7j12YkcyA1zzcX-hOiGmcyutHWT8C2Pj61zcc6QjSjdapUyZ0zbPUzk2kqztrtrhUHII9rcj1koqphuH0gNOiahsZt8/s1600/tong+bi+thu.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><span style="color: black; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><img border="0" height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjXh8qmIAG6DF3_Fk_TN-0bAbQT_cYe4JM_l0Izo5YyO2vDFeGU7j12YkcyA1zzcX-hOiGmcyutHWT8C2Pj61zcc6QjSjdapUyZ0zbPUzk2kqztrtrhUHII9rcj1koqphuH0gNOiahsZt8/s320/tong+bi+thu.jpg" width="254" /></span></a></div>
<div style="text-align: center;">
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span></div>
<div style="text-align: center;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 20px;"><br /></span></div>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span></div>
<div>
<br /></div>
</div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-75655746730946693482013-04-08T03:21:00.002-07:002013-04-08T03:21:29.014-07:00Có thể bạn không biết?<br />
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEivxIr9ubnSq3yEqPGSB4GwoZuKK_PIUVHJSElTV_syTRVqp7sTd-R8T2pZP4AU_Os16dHJFfdfhBIIR_f79pNpa878yLYgu6guKvr4JJ58cgTMvgkWg5ESmr5OoIWX72AlTN_PEI3mS7w/s1600/things+you+may+not+know.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEivxIr9ubnSq3yEqPGSB4GwoZuKK_PIUVHJSElTV_syTRVqp7sTd-R8T2pZP4AU_Os16dHJFfdfhBIIR_f79pNpa878yLYgu6guKvr4JJ58cgTMvgkWg5ESmr5OoIWX72AlTN_PEI3mS7w/s1600/things+you+may+not+know.jpg" /></a></div>
<br />
<br />
Một con chuột có thể kéo dài sự sống thiếu nước hơn cả một con lạc đà.<br />
<br />
Dạ dày của bạn phải tạo ra một lớp chất nhầy mới sau mỗi hai tuần nếu không nó sẽ tiêu hóa chính nó.<br />
<br />
Dấu chấm trên chữ "i" được gọi là tittle<br />
<br />
Nhai kẹo cao su trong khi lột củ hành sẽ giúp cho bạn khóc.<br />
<br />
Số cách có thể di chuyển 4 quân đầu tiên của mỗi bên trong trò chơi cờ vua là 318.979.564.000.<br />
<br />
Quả bom đầu tiên của quân Đồng minh thả xuống Berlin trong Chiến tranh Thế giới II đã giết chết duy nhất một con voi trong vườn thú Berlin.<br />
<br />
Nếu nhỏ chỉ một lượng nhỏ rượu trên một con bọ cạp, nó sẽ ngay lập tức phát điên và tự chích vào thân cho đến chết. <br />
<br />
Bruce Lee quá nhanh đến nỗi họ thực sự đã phải quay chậm phim để bạn có thể nhìn thấy động tác của anh ta. Điều này là trái ngược với tiêu chuẩn ngày nay<br />
<br />
Cụm từ "quy tắc của ngón tay cái" có nguồn gốc từ một luật pháp Anh cũ<br />
nói rằng bạn không thể đánh vợ của bạn bằng bất cứ vật gì lớn hơn ngón tay cái.<br />
<br />
Bằng cách nâng cao chân của bạn từ từ úp vào lưng của bạn, bạn có thể không<br />
chìm vào cát lún.<br />
<br />
Charlie Chaplin một lần giành được giải ba trong một cuộc thi những người giống Chaplin nhất<br />
<br />
Một luật cũ ở Bellingham, Washington, quy định cấm một người phụ nữ nếu di chuyển nhiều hơn ba bước về phía sau trong khi nhảy múa!<br />
<br />
Dơi luôn rẽ trái khi thoát khỏi một hang động!<br />
<br />
Đàn ông có thể đọc những chữ in nhỏ tốt hơn phụ nữ, phụ nữ có thể nghe tốt hơn.<br />
<br />
<br />
Bạn không thể liếm khuỷu tay của bạn<br />
<br />
<br />
Nước có tỷ lệ cao nhất những người đi bộ đến nơi làm việc : Alaska<br />
<br />
Số lượng trung bình của người dân đang bay trên không trung tại Mỹ trong một thời điểm bất kỳ : 61.000 người<br />
<br />
Người thông minh có nhiều kẽm và đồng trong mái tóc của mình.<br />
<br />
Cuốn tiểu thuyết đầu tiên được viết trên một máy đánh chữ: Tom Sawyer.<br />
<br />
111.111.111 x 111.111.111 = 12,345,678,987,654,321<br />
<br />
Mỗi vị vua trong một cỗ chơi bài đại diện cho một vị vua vĩ đại trong lịch sử:<br />
<br />
Quân Bích - Vua David<br />
Quân Cơ - Charlemagne<br />
Quân Nhép -Alexander Đại đế<br />
Quân Rô - Julius Caesar<br />
<br />
Nếu một bức tượng trong công viên mang hình ảnh một người cưỡi ngựa có hai chân trước trong không khí, thì người đã chết trong trận chiến. Nếu con ngựa có một chân phía trước trong không khí thì người đó chết vì các vết thương nhận được trong trận chiến. Nếu con ngựa có tất cả bốn chân trên mặt đất, thì người đó chết vì nguyên nhân tự nhiên.<br />
<br />
Trong thời đại của Shakespeare, nệm được cột vào trên khung giường bằng dây thừng. Khi bạn kéo những sợi dây thừng sẽ làm nệm thắt chặt, làm cho chiếc giường vững chắc hơn để ngủ. Do đó có cụm từ ......... "goodnight, sleep tight"<br />
<br />
Vào thời kì Babylon cách đây 4000 năm, trong một tháng sau đám cưới, cha của cô dâu sẽ cung cấp cho con rể của mình tất cả số bia mật ong dùng để uống. Mật ong được làm thành bia và vì lịch của họ là dựa trên âm lịch, thời gian này được gọi là tháng mật ong, mà chúng ta ngày nay gọi là "tuần trăng mật".<br />
<br />
<br />
~ ~ ~ ~ Và cuối cùng ~ ~ ~ ~ ~ ~ ~ ~ ~ ~ ~ ~<br />
<br />
<br />
Ít nhất 75% những người đọc bài này sẽ cố gắng liếm khuỷu tay của họ.<br />
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-12525339088353079502012-12-21T23:36:00.000-08:002012-12-21T23:44:41.666-08:00Thiêu thân<blockquote class="tr_bq">
<i>"..người nhớ cho ta là cát bụi, trở về cát bụi xin người nhớ cho.."</i></blockquote>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgIgtxwOEANZEf3YUyO2FQNJb3QyNwCj4-_7P36sFzhQMggcj_L2zaTObMUwas47lT5yP9nF2LBJfY08HDF1Nh7o1FRo8lxEumT8fBZNi5_p1FBkO_k4ayPO75Wue9hChe4GVhji6c1-Cc/s1600/%C3%A1nh+s%C3%A1ng.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="238" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgIgtxwOEANZEf3YUyO2FQNJb3QyNwCj4-_7P36sFzhQMggcj_L2zaTObMUwas47lT5yP9nF2LBJfY08HDF1Nh7o1FRo8lxEumT8fBZNi5_p1FBkO_k4ayPO75Wue9hChe4GVhji6c1-Cc/s320/%C3%A1nh+s%C3%A1ng.jpg" width="320" /></a></div>
<br />
<br />
<div style="text-align: center;">
Con thiêu thân mê ánh sáng chói lòa</div>
<div>
<div style="text-align: center;">
Nên một lần tro than hóa kiếp</div>
</div>
<div>
<div style="text-align: center;">
Quên cuộc sống vụn vỡ cái nhìn</div>
</div>
<div>
<div style="text-align: center;">
Giấc mơ con tìm tay Thượng đế</div>
</div>
<div>
<div style="text-align: center;">
<br /></div>
</div>
<div>
<div style="text-align: center;">
Cuộc sống dài nhiều nỗi âu lo</div>
</div>
<div>
<div style="text-align: center;">
Ngày rất ngắn để tìm giây hạnh phúc</div>
</div>
<div>
<div style="text-align: center;">
Mong một lần lửa lòng lên rất thực</div>
</div>
<div>
<div style="text-align: center;">
Giấc mơ ta hóa kiếp cuộc đời ta</div>
</div>
<div>
<div style="text-align: center;">
<br /></div>
</div>
<div>
<div style="text-align: center;">
Ta trở về với bản ngã riêng ta</div>
</div>
<div>
<div style="text-align: center;">
Cái chớp mắt của cả đời lưỡng lự</div>
</div>
<div>
<div style="text-align: center;">
Đôi cánh mỏng tìm tro than cháy sáng</div>
</div>
<div>
<div style="text-align: center;">
Cho một lần tiên giới chẳng còn xa</div>
</div>
<div>
<div style="text-align: center;">
<br /></div>
</div>
<div>
<div style="text-align: center;">
Con thiêu thân đem giấc mơ hóa kiếp</div>
</div>
<div>
<div style="text-align: center;">
Khỏi ngày sau khi sống phải ngậm ngùi</div>
</div>
<div>
<div style="text-align: center;">
Mấy chục năm dòng đời là cát bụi</div>
</div>
<div>
<div style="text-align: center;">
Vẫn có người nỡ phủi giấc mơ rơi./,</div>
</div>
<div>
<div style="text-align: center;">
<br /></div>
</div>
<div>
<div style="text-align: right;">
SG 5/6/19</div>
</div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-88323881331009150182012-12-21T23:27:00.002-08:002012-12-21T23:27:11.830-08:00SayTôi thả hồn tôi cho gió<br />
Tôi thả hôn tôi cho mây<br />
Tôi cười với tôi trong nắng<br />
Tôi với hồn tôi đang say<br />
<br />
Tôi chia hồn tôi một ly<br />
Sóng sánh ánh trăng mật ngọt<br />
Tôi hỏi hồn tôi này bạn"<br />
"Có phải tình tôi đang đi"<br />
<br />
Hồn cười ôm tôi an ủi<br />
Thôi về đi thôi về đi<br />
Tiệc tàn trăng đêm uống cạn<br />
Hai bóng buồn xiêu miên man./,Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-37937019228481237882012-12-21T23:20:00.001-08:002012-12-21T23:24:58.194-08:00Thơ viết cho người để quên<blockquote class="tr_bq">
<blockquote class="tr_bq">
<i>"Buồn trông con nhện giăng tơ</i><br /><i>Ba năm anh trải lòng thơ cho người</i><br /><i>Lòng anh e ấp mộng đời</i><br /><i>Ba năm ôm ấp cho người đổi thay"</i></blockquote>
</blockquote>
Ai nói với tôi câu "thôi mình chia tay<br />
Cứ tiếp tục sẽ không còn kết quả"<br />
Ai gieo lòng tôi mùa mưa băng giá<br />
Ai với ai khi tôi lạnh đêm nay<br />
<br />
Ai với ai (giờ có khi) vui cùng sóng bước<br />
Mái tóc của tôi giờ sẽ ngã vai nào<br />
Mắt môi tôi cười làm sao cho kẻ khác<br />
Nẻo tình tôi. giờ nẻo khác rồi sao?<br />
<br />
Ai nói với tôi câu "mình chia tay..."<br />
Mà ái tình cười mỉa mai ngang ngược<br />
Ôi tình yêu tôi là viên xúc xắc<br />
Chạm gót thời gian xúc xắc ngã nhào<br />
Tình của người trơn như cái đĩa<br />
Khoảng trống đam mê xúc xắc biết làm sao<br />
<br />
Anh làm sao với tình yêu một mặt<br />
Nếu mặt kia anh thành kẻ khác rồi<br />
Trò chơi đời theo thời gian nhúng nhẩy<br />
Trật mặt tình nên tôi biết chia phôi ./.<br />
<br />
Sài Gòn 6/1998<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-56014257346718181712012-12-21T23:14:00.003-08:002012-12-21T23:14:30.737-08:00Phố<b>Phố</b><br />
<br />
Phía Thủ Đức chắc là trời đang mưa<br />
Em co mình dấu thân nơi khung cửa<br />
Kí túc xá chiều đông se sắt lạnh<br />
Em nhớ anh trong đôi mắt diệu hiền<br />
<br />
Anh trên phố cô đơn chiều vẩn đục<br />
Mắt cay xè bụi lá hóa bơ vơ<br />
Em một nửa và anh một nửa<br />
Một nửa nhớ thương, một nửa mong chờ./.<br />
<br />
<b>Về</b><br />
<br />
Em về nơi xa mưa chiều vần vũ<br />
Ôm giấc mơ đợi anh đến mõi mòn<br />
Cả vầng trăng cũng không còn thấy nữa<br />
Khung của buồn trắng lạnh mưa giăng./.<br />
<br />
***<br />
<br />
Theo em mùa trên phố<br />
Ngược dòng đời ngút ngả<br />
Tóc em rẽ ngôi nào<br />
Lòng anh bâng khuâng quá<br />
<br />
***<br />
<br />
Buồn trông con nhện giăng tơ<br />
Ba năm anh trải lòng thơ cho người<br />
Lòng anh e ấp mộng đời<br />
Ba năm ôm ấp cho người đổi thay<br />
<br />
***<br />
<br />
<br />
<br />
<br />Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-61568717343374276902012-12-21T23:08:00.004-08:002012-12-21T23:09:15.840-08:00Thơ viết cho hai người<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjnjt1jwY_9xK7RLXkB6Qe4FWDhtyceAN9uxPdXTzrIpOFd0d-PQpWdggP1ZTwFe_fgLDV5HxSLJeRoO8uLrV9MD138ft0xmtwWx1mMtMu6gZgWXwJydoTvRBohOzsZUJBEMG8ZPEBOTLM/s1600/c%C3%A2y.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="213" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjnjt1jwY_9xK7RLXkB6Qe4FWDhtyceAN9uxPdXTzrIpOFd0d-PQpWdggP1ZTwFe_fgLDV5HxSLJeRoO8uLrV9MD138ft0xmtwWx1mMtMu6gZgWXwJydoTvRBohOzsZUJBEMG8ZPEBOTLM/s320/c%C3%A2y.jpg" width="320" /></a></div>
<br />
<br />
<div style="text-align: center;">
Mình thương nhau chừng ấy</div>
<div style="text-align: center;">
Anh viết lá thư đầu</div>
<div style="text-align: center;">
Đêm mùa thu run rẩy</div>
<div style="text-align: center;">
Hai đứa cầm tay nhau</div>
<div style="text-align: center;">
<br /></div>
<div style="text-align: center;">
Mình thương nhau thật lâu</div>
<div style="text-align: center;">
Em bao lần khóc dỗi</div>
<div style="text-align: center;">
Anh là người gây tội</div>
<div style="text-align: center;">
Mưa cũng phải buồn hơn</div>
<div style="text-align: center;">
<br /></div>
<div style="text-align: center;">
Mình bao đêm nên thơ</div>
<div style="text-align: center;">
Em cười khi anh ước</div>
<div style="text-align: center;">
Được là cơn gió mượt</div>
<div style="text-align: center;">
Ẩn vào hương tóc em</div>
<div style="text-align: center;">
<br /></div>
<div style="text-align: center;">
Mình những khi lên chùa</div>
<div style="text-align: center;">
Anh chỉ em dòng sông</div>
<div style="text-align: center;">
Nước mùa thu xanh ngát</div>
<div style="text-align: center;">
Có bòng dừa nhớ mong</div>
<div style="text-align: center;">
<br /></div>
<div style="text-align: center;">
Mình bây giờ yêu nhau</div>
<div style="text-align: center;">
Như đôi chim trò chuyện</div>
<div style="text-align: center;">
Hót chung nhịp tình đầu</div>
<div style="text-align: center;">
Đập cùng đôi cánh vội</div>
<div style="text-align: center;">
<br /></div>
<div style="text-align: center;">
Ôi tình yêu dễ thương</div>
<div style="text-align: center;">
Ngọt ngào như viên kẹo</div>
<div style="text-align: center;">
Mình sẽ chung vành môi</div>
<div style="text-align: center;">
Chia nhau giờ hạnh phúc./.</div>
<div style="text-align: center;">
<br /></div>
<div style="text-align: right;">
10/1997</div>
<div style="text-align: right;">
<br /></div>
<br />
<br />
<br />
<br />Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-20322290085522869402012-12-21T22:43:00.001-08:002012-12-21T22:43:14.598-08:00Nghịch cảnh<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi1to2MRDjYx-njtSI5b9O8AcU3_px2TVbyCRn8BO4yzUohdOJculb8qnzBNVRygxTebSrpHyabrTO10WhDItsJ7zDY4PqHDchK0ICA9LK-OTKX2BUkiGTJNs7T10tUUKMwQkrkPeivMBk/s1600/d%C3%A1ng+x%C6%B0a.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi1to2MRDjYx-njtSI5b9O8AcU3_px2TVbyCRn8BO4yzUohdOJculb8qnzBNVRygxTebSrpHyabrTO10WhDItsJ7zDY4PqHDchK0ICA9LK-OTKX2BUkiGTJNs7T10tUUKMwQkrkPeivMBk/s320/d%C3%A1ng+x%C6%B0a.jpg" width="247" /></a></div>
<br />
<br />
<div style="text-align: center;">
Nếu một mai không thấy được em</div>
<div style="text-align: center;">
Anh sẽ buồn như con dế nhỏ</div>
<div style="text-align: center;">
Đánh rơi tiếng hát ở đâu rồi</div>
<div style="text-align: center;">
Lang thang tìm...sương đêm, bóng cỏ</div>
<div style="text-align: center;">
<br /></div>
<div style="text-align: center;">
Anh sẽ lặng im như sỏi dưới sông</div>
<div style="text-align: center;">
Biết lăn về chốn nao tìm gặp</div>
<div style="text-align: center;">
Nụ tình ta mây trôi bèo dạt</div>
<div style="text-align: center;">
Sỏi sẽ buồn trông nước chảy bao năm</div>
<div style="text-align: center;">
<br /></div>
<div style="text-align: center;">
Anh sẽ về bên bờ cát quen</div>
<div style="text-align: center;">
Chỉ có con còng xưa bầu bạn</div>
<div style="text-align: center;">
Còng vẫn luôn se bờ cỏ gấu</div>
<div style="text-align: center;">
Còng có buồn khi thiếu bước chân quen</div>
<div style="text-align: center;">
<br /></div>
<div style="text-align: center;">
Anh sẽ buồn đốt cháy vầng thơ</div>
<div style="text-align: center;">
Con mắt nhìn nhàu nhòa chiếc lá</div>
<div style="text-align: center;">
Anh sẽ về lại bến-không-em</div>
<div style="text-align: center;">
Xây túp lều trú thân tình băng giá.</div>
<div style="text-align: center;">
<br /></div>
<div style="text-align: right;">
11/97</div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-72122483020401534262012-12-20T23:31:00.000-08:002012-12-20T23:38:13.661-08:00Đường yêu<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjnjj0OliHjp72nlwVVH5lbb8enCCXN4JxMnDjdTayOBp7seGKv9pi9aiaK4sKGF8YCgW53VJMXEI2oaVt4u87WBgDBGKbvclXALQEiQBYGQdd9nMgPFylzNeIUc1PMV32-VywrQKvVtSQ/s1600/%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng+l%C3%BD+t%E1%BB%B1+tr%E1%BB%8Dng+Nha+Trang.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="266" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjnjj0OliHjp72nlwVVH5lbb8enCCXN4JxMnDjdTayOBp7seGKv9pi9aiaK4sKGF8YCgW53VJMXEI2oaVt4u87WBgDBGKbvclXALQEiQBYGQdd9nMgPFylzNeIUc1PMV32-VywrQKvVtSQ/s400/%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng+l%C3%BD+t%E1%BB%B1+tr%E1%BB%8Dng+Nha+Trang.jpg" width="400" /></a></div>
<br />
<br />
<div style="text-align: center;">
Em đi về cuối đường xa </div>
<div style="text-align: center;">
Ta ngơ ngác trông theo mãi</div>
<div style="text-align: center;">
Làn hương em còn đọng lại</div>
<div style="text-align: center;">
Ấm lòng ta suốt một thời</div>
<div style="text-align: center;">
<br /></div>
<div style="text-align: center;">
Em đi về cuối đường chiều </div>
<div style="text-align: center;">
Mùa thu lăn tăn lá đổ</div>
<div style="text-align: center;">
Chút tình nhờ lá gửi hộ</div>
<div style="text-align: center;">
Nhớ rơi vào giỏ xe em</div>
<div style="text-align: center;">
<br /></div>
<div style="text-align: center;">
Em đi về cuối đường mơ</div>
<div style="text-align: center;">
Áo trắng như là ảo ảnh</div>
<div style="text-align: center;">
Ta nhặt tia nắng lạc loài</div>
<div style="text-align: center;">
Về đo khoảng trời trống vắng</div>
<div style="text-align: center;">
<br /></div>
<div style="text-align: center;">
Em đi về cuối đường yêu</div>
<div style="text-align: center;">
Sao chưa một lần ngoảnh lại</div>
<div style="text-align: center;">
Trái tim ta hóa rong rêu</div>
<div style="text-align: center;">
Tháng ngày đưa em xa mãi</div>
<br />
<div style="text-align: right;">
<i>Nha Trang, mùa thu 1997</i></div>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-44294633285678407092012-09-20T02:28:00.000-07:002012-09-20T21:40:15.417-07:00Tóm lược sử thi Mahabharata <div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhrMDvF_XT7cVRqBhCVzQggRh6VP6M8oznQ4ZaVfiE-rVdFTdbtBG-C53Ez_sOtBUEJkmvLwglkdXRBMeNZaVSigk2NLwfa6gb2neKanNoholvNqLjKt1g6IYNjiIj1IpqJMIozZS1_ghg/s1600/Kurukshetra.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="278" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhrMDvF_XT7cVRqBhCVzQggRh6VP6M8oznQ4ZaVfiE-rVdFTdbtBG-C53Ez_sOtBUEJkmvLwglkdXRBMeNZaVSigk2NLwfa6gb2neKanNoholvNqLjKt1g6IYNjiIj1IpqJMIozZS1_ghg/s400/Kurukshetra.jpg" width="400" /></a></div>
<div style="text-align: center;">
<br /></div>
<div style="text-align: right;">
<br /></div>
<div style="text-align: right;">
Tác giả : <b><a href="http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacgia&action=detail&id=2469">Nguyễn Quỳnh</a> </b></div>
<div style="text-align: right;">
<strong style="background-color: white; color: #004d99; font-family: 'Times New Roman', Times, FreeSerif, serif; font-size: 12px; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration: none;"><br /></strong></div>
Lời nói đầu:<br />
<br />
<blockquote class="tr_bq" style="text-align: justify;">
Văn-hóa cổ Ấn-độ có hai tập Anh-hùng ca; Mahàbhàrata và Ràmàyana. Tập Mahàbhàrata, khi đọc nhấn mạnh vào âm thứ ba (bhà), là nguồn-gốc của Chí-Tôn Ca. Câu-chuyện được truyền-tụng trong nhân-gian bắt đầu khoảng 1400 trước Công-Nguyên. Nhưng Mahàbhàrata chỉ được san-định thành sách giữa khoảng từ 200 năm trước Công-Nguyên và 200 năm sau sau Công-Nguyên. Toàn-tâp khoảng 5800 trang, dài bằng cả hai tập Iliad và Odysey của Homer cộng lại, và dài gần gấp ba lần cuốn Thánh-kinh Thiên-chúa-Do-thái-giáo. Vì quan-niệm về thời-gian của người Ấn khá đặc biệt, nên thiên anh hùng ca này không trình bày theo thứ tự lịch-sử, mà theo tầm quan-trọng của vấn-đề. Bởi vậy nó có vẻ lung-tung, khiến mỗi học-giả viết toát-yếu Mahàbhàrata phải rất cẩn-thận để giúp độc-giả dễ-dàng theo dõi. Tôi đã đọc lại bản-tóm-lược Mahàbhàrata của tôi cho Chí-Tôn Ca xuất bản ở Sàigòn năm 1972, và gần đây so-sánh với các bản tóm-tắt của các học-gỉa khác, để viết ra một bản tóm-lược mới, xếp đặt theo í tôi, mà tôi rất hài lòng vì không có một bản tóm-lược nào có cái khung rõ ràng như thế, ngay cả bản rút ngắn (412 trang) của William Buck (1973 và 1997). Những đoạn có ghi dấu ngôi sao (*) là phẩn tôi dịch thẳng từ nguyên bản để độc-gỉa thấy cách miêu tả của người Ấn</blockquote>
<br />
<b> 1. ĐẠI-TỘC BHÀRATA</b><br />
Vua Dushyanta kết-duyên cùng thôn-nữ Shakuntala, con nuôi của hiền-giả Kanwa. Nhưng sự-thực nàng là con gái của tiên-nữ Menaka và hiền-giả Viswa. Nàng Shakuntala hạ-sinh được một hoàng-tử đặt tên là Bhàrata. Đại-tộc Bhàrata bắt đầu từ đó.<br />
Vua Bhàrata truyền ngôi cho cháu là Shamtanu. Vua Shamtanau kết-duyên cùng Thần-nữ sông Hằng. Bảy hài-nhi đầu của Hoàng-hậu sinh ra đều là bảy vị thánh-nhân nên đều được Hoàng-hậu bí-mặt thả xuống sông Hằng giải-thoát. Chỉ riêng người con thứ tám là Hoàng-tử Shantavana (Bhìsma) được ở lại triều-đình.<br />
<br />
<b>2. BHÌSMA VÀ AMBÀ</b><br />
Nữ-thần sông Hằng ra đi, vua Shantanau kết-duyên với mĩ-nhân Shatyavati, con nuôi của một ông lão đánh-cá. Trước đó Shatyavati đã có với một pháp-sư Bà La Môn một người con là hiền-giả Vyàsa, tương-truyền là tác-giả Chí-Tôn Ca. Điều-kiện để kết-hôn với với mĩ-nhân Shatyavati rất khắt khe: vua Shantanau phải lập con trai nàng làm Đông-cung Thái-tử thay vì Hoàng-tử Shantavana. Để giúp vua cha mãn-nguyện với nàng Shatyavati, Hoàng-tử Shantavana tự từ bỏ ngôi-vị Đông-cung Thái-tử và hứa suốt đời sống độc-thân để tránh chuyện con cháu tranh ngôi sau này. Vì đức-hạnh của Shantavana cao-quí như thế nên người đời gọi chàng là Bhisma, tức là “người đã thực-hiện được lời thề khó.”<br />
<br />
Hoàng-hậu Shatyavati sinh được hai con là Hoàng-tử Chitrangada và Vichitravìrya. Chitrangada chẳng may tử-trận, Vichitravìrya lên kế-vi vua cha, Bhìsma làm nhiếp-chính. Trong một cuộc tỉ-thí võ-nghệ theo truyến-thống, vua Sàlva của xứ Sàubha được nàng Ambà yêu-thương, nhưng khi đụng đầu với Bhìsma ông bị thua nhưng Bhìsma tha không giết, mà chỉ chọn nàng Ambà như một chiến-công theo truyền-thống gọi là Svayamvara (chọn cho mình). Bhìsma mang nàng vế kinh-đô Hàstinapura dâng cho em cùng cha khác mẹ Vichitravìya. Ambà từ chối với lí do nàng chỉ yêu Sàlva. Do đó, Bhìsma phải đưa Ambà về Sàlva. Song le, Sàlva cảm thấy nhục vì thua Bhìsma, nên ông không nhận Ambà, và gửi nàng lại cho Bhìsma vì ông nghĩ Bhìsma xứng đáng được nàng trong một trận đánh danh-dự. Điều này làm nàng Ambà thất-vọng. Nhưng khi trở lại Hàstinapura thì tình-thế càng trở nên bi-đát hơn vì Vichitravìya không chịu lấy nàng với lí do tim nàng đã để cho người khác. Ambà xin Bhìsma cưới nàng, nhưng Bhìsma từ chối vì chàng đã hứa sống độc-thân. Ambà uất-hận cho rằng mọi bất-hạnh xảy ra cho nàng chỉ vì Bhìsma. Nàng lại trở về với Sàlva, nhưng một nữa lại bị Sàlva từ chối. Ambà trở lại triều-đình Hàstinapura và tìm hiệp-sĩ sẵn-sàng vì mình hạ-thủ Bhìsma. Nhưng không hiệp-sĩ nào dám nhận lời, một phần vì họ kính-trọng Bhìsma, và cũng một phần họ sợ Bhìsma.<br />
<br />
Ambà tu-hành khắc-khổ cốt để mong Thần Vishnu giúp-đỡ. Thần Vishnu trao cho Ambà một vòng hoa và bảo rằng nếu ai đeo vòng hoa đó, người ấy sẽ trở thành kẻ thù của Bhìsma. Ambà đến xứ Pàncàlas dâng vòng hoa cho vua Drupada. Nhưng Drupada, dầu là một hổ-tướng, từ chối giao-chiến với Bhìsma. Cuối cùng, nghe theo lời khuyên của một vài ẩn-sĩ, Ambà tìm đến Parasuràma. Parasuràma là một nhà tu Bà La Môn nồi-tiếng, tinh-thông võ-nghệ, và cũng là người thề sẽ tận-diệt giai-cấp võ-sĩ đạo. Parasuràma trở thành Thiên-sứ (Avatàr) của Vishnu và đã từng thực-hiện nhiều trai-giới dâng lên cho vị thần này. Parasuràma nhận lời giúp Ambà. Nhưng khi giao-đấu, Parasuràma bị Bhìsma hạ. Thế là Ambà tiêu-tan hi-vọng.<br />
<br />
Ambà đến Hi-mã Lạp-sơn, khổ công tu-luyện hơn nữa để mong thấn Shiva giúp đỡ. Thần Shiva hiện ra, hứa với nàng rằng kiếp tới Ambà sẽ là một người đàn ông. Không thể chờ đợi được, Amba chụm một đống lửa lớn rồi nhẩy vào tự thiêu. Nàng trở lại kiếp người có cái tên là Sikhandin, một trong những hoàng-tử của vua Drupada, rồi trở thành một trong những chiến-tướng, sau này đối trận với Bhìsma.<br />
<br />
<b>3. HOÀNG-HẬU KUNTÌ VÀ MÀDRÌ</b><br />
Xét về liên-hệ gia-tộc thì con trai của vua Vicitravìrya lại là con của Vyàsa có với bà Ambàkikà. Còn Pàndu lại là anh em cùng cha khác mẹ với vua Dhrtaràstra. Dhrtaràstra là con trai của Vyàsa có với bà Ambikà. Vua Dhrtaràstra sinh được một trăm con. Pàndu làm vua đóng đô ở Hàstinapura có Bhìsma là Thái-giám. Pàndu có hai vợ - bà Kuntì, con gái của vua Sùra xứ Yàdava. Sùra cũng là cha của Vasudeva, tức là cha của Krishna. Như thế Krishna phải gọi bà Kuntì là dì. Bà vợ thứ hai của vua Sùra cũng là một công-chúa. Một hôm đi săn vua Pàndu bắn một con hươu đang làm tình. Sự thực con hươu này là một hiền-gỉa biến-hình thành con hươu, có tài linh-thiêng với những kiếp sinh anh-hùng. Trước khi chết vị hiền-gỉa nguyền rằng vua Pàndu cũng sẽ chết trong khi đang chăn-gối. Do đó Pàndu không có con. Những người con trai của vua thực sự là con của hoàng-hậu có với các chư-thấn.<br />
<br />
Hoàng-hậu Kuntì được một người em họ không con của thân-phụ bà nuôi bà khi bà còn nhỏ. Tên của bà chính là tên người cha nuôi đó, chứ tên chính-thức của bà là Prithà. Trước khi lấy chồng bà được hiền-giả Durvàsas ban phép lạ gọi là thần-chú Mantra. Phép này giúp bà có con với bất cứ thần-linh nào bà muốn. Do đó, trước khi là hoàng-hậu, bà Kunti đã có với thần mặt trời một đứa con trai tên là Karna. Karna sinh ra tai đã có khuyên và một bộ áo-giáp. Bà Kuntì cảm thấy ngượng vì sự-kiện này, nên bà thả hài nhi Karna xuống sông, may là có một chiến-sĩ lái chiến-xa tên là Adhiratha vớt được mang về nuôi làm con, để rồi lớn lên trở thành một dũng-tướng đối đầu với những anh em cùng mẹ khác cha của mình. Cũng với phép thần-chú Mantra, bà sinh ra Yudhisthira với thần Chính-pháp (Dharma), sinh ra Bhìma với thần gió Vàyu, cho nên Bhìma có sức mạnh nhổ cây làm khí-giới và ăn không biết no. Với thần Indra, vị thần chính trong kinh-ngữ Vệ-đà, bà sinh ra Arjuna, một hiệp-sĩ trong-sạch và là anh-hùng trong Chí-Tôn Ca.<br />
<br />
Bà thứ hậu Màdrì của vua Pàndu cũng có con cái giòng tiên-thánh. Bà sinh ra Nakula và Sahadeva với hai vị thấn Asvin (anh em sinh đôi) cả hai là kị-sĩ thiên-cung điều-khiển chiến-xa vào lúc bình-minh.<br />
<br />
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgZdx6Of9C-qFuYIyXO45_xpG_khfOFXHkClJkDLDWSGgxsO3h5pzmezrZ5C-XuKDZ065MVcSM0aGpfRipl2_XqIWKVWANtKwYvstE6SExFimKFkveXV1HtX8aWHxRigoA-MhDvBSTebCA/s1600/krishnaarjunaconchshells_1.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" height="300" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgZdx6Of9C-qFuYIyXO45_xpG_khfOFXHkClJkDLDWSGgxsO3h5pzmezrZ5C-XuKDZ065MVcSM0aGpfRipl2_XqIWKVWANtKwYvstE6SExFimKFkveXV1HtX8aWHxRigoA-MhDvBSTebCA/s400/krishnaarjunaconchshells_1.jpg" width="400" /></a>
<br />
<br />
<b>4. KRISHNA</b><br />
Trong khi ấy tại triều-đình của vua Sùra, thuộc hoàng-tộc Yàdava, cháu trai của ông là Krishna ra đời, với danh-nghĩa Avaràr, tức hậu-duệ của thân Vishnu. Tương truyền rằng khi Vasudeva, cha của Krishna, sinh ra có những tiếng trống trên trời vì ông là cha của các đấng hậu-duệ Vishnu.<br />
<br />
Khi Vasudeva cưới Devakì, cháu vua Ugrasena của xứ Mathurà thì lại có vấn-đề. Số là Kamsa, người anh em họ của Devakì là một bạo-chúa xấu-xa đang cầm tù vua Ugrasena và xoán ngôi. Kamsa mưu giết tất cả con của Devakì khi mới sinh ra. Cả thẩy sáu hài nhi đã bị giết. Nhưng hài nhi thứ bẩy được Vasudeva đặt vào trong bào thai của Rohinì, một trong số những người vợ của ông. Đưá bé sinh ra tên là Balaràma, tức là anh của Krishna.<br />
<br />
Vesudeva trao Krishna cho Nanda, một người chăn bò nuôi dùm. Do đó Krishna lớn lên giữa đám mục-đồng và những cô gái vắt sữa bò.Tuy là một đứa bé nhút nhát có tật ăn cắp sữa, bơ, và hoa-quả, nhưng Krishna cũng có thành-tích anh-dũng. Ông ta thích gần phụ-nữ, nên theo tương-truyền, Krishna có đến 16,108 bà vợ, kể cả chính-thất là Rukminì.<br />
<br />
Trong khi ấy bạo-vương Kamsa vẫn tiếp-tục tìm cách giết Krishna và anh của Krishna là Balaràma nhưng lần nào cũng bị thua bởi chiến-thuật này hay chiến-thuật khác. Cuối cùng Kamsa mời hai anh em Krishna tới tranh-tài lực-sĩ và nhờ quỉ-vương Kesin, đầu ngựa mình thú ra đánh hộ mình. Krishna giết chết Kesin, và từ đó có ông danh-hiệu “Kesinisùdana”, tức “Người giết qủi Kesin”. Đến lượt chính Kamsa bước vào đấu-trường và bị anh của Krishna là Balaràna giết chết. Thế là vua Ugrasena được giải-thoát và trở về cai-trị vương-quốc Mathurà. Sau đó, Krishna xuống địa-ngục mang sáu người anh bị Kamsa thảm-sát trở về trần. Thế là Krishna thay tâm đổi tính.<br />
<br />
Trước hết Krishna từ giã đám phụ-nữ vắt sữa, rồi hành-lễ tinh-khiết và nhận ra vua Vasudeva và hoàng-hậu Devakì là cha mẹ chính-thức của mình. Ông cùng với Balaràna nhận giáo-huấn tâm-linh và nghệ-thuật chiến-tranh của hiền-gỉa dũng-sĩ Sàmdìpani. Trong thời-gian này có một con thủy-quái thu mình trong vỏ ốc khổng-lồ tên là Pancajana. Thuỷ-quái này bắt cóc con trai vua Sàmdipani. Krishna xuống đáy biển giết được thủy-quái và dùng cái vỏ của nó làm chiếc tù-và đặt tên là Pàncajanya.<br />
<br />
Vua Jaràsamdha của xứ Màgadha có mấy công-chúa gả cho Kamsa, hay tin Kamsa bị Krishna hại, đem một đạo hùng-binh đến tấn-công kinh-đô Mathurà cả thẩy mười tám lần nhưng không có kết qủa. Nhưng rồi với sự trợ giúp của vua Kàlayavana, gốc Hi-lạp cư trú ổ Ân-độ thời đó, Jaràsamdha tổng công-kích và khiến cho Krishna phải thiên đô về Dvàrakà (Kinh-đô có nhiều cửa) thuộc vùng Gujarat. Bởi thế Dvàrakà trở thành một trong mấy đô-thị linh-thiêng của Ân-độ. Những vinh-quang sau này của Krishna gồm có chiến-thắng thần Indra, Varuna và Shiva, bắt được công-chúa Gandhàra và thắng vua xứ Nisàda là người đã tấn-công kinh-đô Dvàrakà. Do những vĩ-công kể trên, Krishna được người Ấn coi như hình-ảnh lí-tưởng kết hợp giữa con người và thần-linh, và vẫn được thờ cúng cho đến ngày nay.<br />
<br />
<b>5. DURYODHANA</b><br />
Vua Pàndu để cho người em mù loà cùng mẹ khác cha là Dhrtaràstra ở lại kinh-đô Hàstinapura tạm thời nhiếp-chính, còn ông dẫn hoàng-hậu Kuntì cùng thứ hậu Màdrì và năm hoàng tử Yudhidthira, Bhìma, Arjuna, Nakula và Sahadeva vào an-tĩnh trong rừng. Ông băng hà khi đang ân-ái với bà Màdrì, i như lời nguyền của hiền-gỉa chết oan trước kia. Thứ hậu Màdrì tình-nguyện lên dàn hoả-táng với chồng (Satì).<br />
Các vị hiền-gỉa tu trong rừng đưa hoàng-hậu Kuntì và các con về Hàstinapura ân cần nhờ lão-tướng Bhìsma trông nom. Cái chết của Pàndu khiến cho Dhrtaràstra chính thức lên làm vua. Thế là anh em Pàndava và một trăm con của vua Dhrtaràstra, thường gọi là anh em Kàurava, cùng lớn lên với nhau tại triều-đình. Tổ-phụ và cũng là lão-tướng Bhìsma là người to lớn dị thường và có tính đùa qúa trớn với các cháu. Ông thường ấn đầu mấy cháu Kàurava xuống nước cho đến khi chúng gần ngạt mới lôi ra. Khi thấy chúng ở trên cây, ông rung cây cho chúng ngã xuống như sung rụng. Chính vì thế nên anh em Kàurava ghét ông, đặc biệt là người anh cả Duryodhana có hỗn-danh là “kẻ chơi xấu”. Duryodhana cũng ghét người anh em họ Yudhisthira, chỉ vì trong tương lai Yudhisthira sẽ lên làm vua. Để loại trừ hậu hoạn, Duryodhana bỏ thuốc độc vào thức ăn của Bhìma rồi ném Bhìma xuống sông. Duryodhana cũng tìm cách bỏ tù Arjuna và Yudhisthira. Nhưng âm-mưu của Duryodhana không thành vì thuốc độc chỉ càng làm tăng sức mạnh của Bhìma. Dầu sao các lão-tướng như Krpa, Drona và Bhìsma cùng tận-tâm dạy võ-nghệ cho cả hai nhóm anh em Pàndu và Kàurava. Vì thế sau này Arjuna trở nên người có võ-nghệ cao cường nhất, còn Bhìma là người có sức mạnh kinh-hồn nhất.<br />
<br />
<b>5. KARNA</b><br />
Chúng ta còn nhớ hoàng-hậu Kuntì trước kia có với thần mặt trời một người con trai là Karna. Nhờ một dũng-sĩ điều khiển chiến-xa có tâm-thức nhu-hoà mang về nuôi nấng cho nên Karna cũng có mặt ở kinh-đô Hàstinapura và cũng được học võ với hai nhóm Kàurava và Pàndu. Để làm vừa lòng Duryodhana, Karna thách Arjuna tỉ-thí. Cả hai vị-thần Indra, cha của Arjuna, và thần Mặt-Trời, cha của Karna đều hiện ra trên trời để khích-lệ hai con. Nhưng khi đặt vấn-đề đẳng-cấp xã-hội theo luật giao tranh, có người hỏi có phải Karna là con của một dũng-sĩ điều-khiển chiến-xa, nôm na là “phu-xe” không thì Duryodhana vội-vàng đưa Karna lên chiến-xa và chở đi chỗ khác. Cuộc tỉ-thí vì thế bãi bỏ. Sau đó, Duryodhana cũng lấy quyền vua cha thưởng cho Karna làm vua xứ Anga, ngày nay có người cho là Bengal.<br />
<br />
Thần Indra, cha của Arjuna biết rằng trong tương lai thế nào Arjuna và Karna cũng phải giao-tranh, cho nên ông muốn Karna yếu hơn. Indra bèn hiện ra trước mặt Karna duới hình-dạng của một tu-sĩ Bà La Môn và xin Karna cho mình đôi khuyên tai với bộ áo giáp. Là người nổi tiếng từ-tâm, Karna cho ngay. Qúa ngạc nhiên vì đức-độ của Karna, thần Indra ban cho Karna một mũi phi-tiêu Naikartana và một võ-khí huyền bí tên là Sakti. Với võ-khí thứ hai, Karna có thể giết đối thủ ở rất xa, với một điều-kiện là Karna chỉ được dùng một lần mà thôi, sau đó phải trả lại cho ông. Hơn nữa, để dùng võ-khí Sakti, Karna cần gặp hiền-gỉa Parasuràma để xin thần-chú.<br />
<br />
Karna đội lốt là một sa-môn vào rừng tìm gặp đạo-sư dũng-lược Parasuràma, là người không ưa giai-cấp võ-sĩ đạo để nhờ đạo-sư dạy cho thần-chú sử-dụng võ-khí Sakti.Parasuràma tưởng rằng Karna là một Bà La Môn, nên giúp ngay. Nhưng một hôm khi Karna đang ngủ thì bị một con “bọ cạp” đốt vào đùi chảy máu, nhưng Karna chịu đau bình thản như không. Thấy vậy, Parasuràma nghĩ răng Karna phải là một dũng-sĩ mới có khả năng chịu đau như thế. Karna đành phải thú-nhận tông-tích của mình. Parasuràma nổi-giận nguyền rằng khi cần sử dụng võ-khí Sakti, Karna sẽ không nhớ câu thần-chú, và sẽ chết.<br />
<br />
<b>6. DRONA VÀ DRUPADA</b><br />
Hiền-giả Bharadvàja sống trong rừng cô-tịch dạy phép bắn cung cho con trai là Drona và hoàng-tử Drupada, con vua Prsata của xứ Pàncàlas. Drona và Drupada đều sinh ra từ nguồn-gốc linh-thiêng – không ai có mẹ. Cha của Drona là Vharadvàja làm rơi hạt giống xuống cái thùng thế là Drona sinh ra. Còn Prsata trong lúc mải ngắm một tiên-nữ thiên-nhiên xinh-đẹp là Menakà làm rơi hạt nhân xuống đất. Hổ thẹn quá ông vội vàng (Dru) lấy chân dẫm lên (pada) hạt giống, nhưng dẫm trượt, thế là Drupada sinh ra.<br />
<br />
Hồi còn bé Drupada thường hứa với Drona là lớn lên làm vua ông sẽ cho Drona một nửa vương-quốc. Nhưng khi lên ngôi ông không những quên lời hứa mà còn gọi Drona là thằng ăn mày hèn hạ. Trong khi đó Drona được Bhìshma mời đến kinh-đô dậy võ cho năm anh em Pàndu và cho một trăm anh em giòng Kàuravas. Sau thời-gian huấn-luyện, Drona gửi năm anh em Pànda đi chinh-phạt xứ Pàncàlas. Cuộc chinh-phạt thành-công và vua Drupada bị bắt. Drona tha lỗi cho Drupada để giữ lại tình bạn xưa, và đồng thời cũng thể theo lời hứa cuả Drupada, Drona lấy nửa giang-sơn Pàncàlas. Drupada nuốt hận và mong có một người con trai sau này giết Drona để rửa nhục cho mình.<br />
<br />
Để thực-hiện lời nguyền vua Drupada lập đàn tế rất lớn và sát-sinh mười triệu con bò. Nhưng ở lúc linh-ứng hoàng-hậu chưa kịp sửa soạn nhận hạt-nhân của Drupada, thì từ ngọn lửa thiêng huyền-diệu sinh ra một trai một gái. Cậu con trai tên là Dhrstadyumna và cô gái tên là Dràupadì.<br />
<br />
<b>7. DRÀUPADÌ</b><br />
Trong khi ấy lòng ghen-ghét thù-nghịch của Duryodhana cứ tăng lên, với nỗi ám-ảnh là một ngày nào đó Yudhisthira sẽ lên làm vua. Duryodhana bàn với Karna và người cậu tên là Sakuni tìm cách tiêu diệt năm anh em Pàndu. Vua Dhrtaràstra vốn thương đám cháu Pàndava nên không bằng lòng với manh tâm của con mình. Nhưng vì Duryodhana năn-nỉ qúa nên cuối cùng ông cũng nghe theo và chính ông mời anh em Pàndava đến dự đại-lễ tế Thần Shiva tại thành-phố Vàranàvata.<br />
<br />
Bộ-trưởng Purocana được lệnh tới Vàranàvata xây một toà lâu-đài dành riêng cho anh em Pàndava ở tạm trong thời-gian hành-lễ. Vật-chất xây cất phải có tính dẫn hỏa và tô bằng sáp để dễ đốt cháy khi anh em Pàndava đang ngủ. Trong khi ấy, một người người con của Dhrtaràstra là Vidura, vốn mến anh em Pàndavas cảm thấy có chuyện không lành nên ngầm sai một thợ mỏ lén đào một con đường hầm ngay dưới toà lâu đài thông ra bên ngoài, và cho anh em Pàndava biết trước đế phòng. Sau khi hỏa-thiêu lâu-đài, vua Dhrtaràstra và các hoàng-tử Kuru con ông tưởng rằng năm anh em Pàndu đã chết, nên mặc tang-phục làm lễ cử-ai rất lớn bên sông tế vong-hồn Pàndava.<br />
<br />
Anh em Pàndava thoát nạn cải-trang là những tu-sĩ Bà La Môn, cùng mẹ là hoàng-hậu Kuntì tạm xa lánh một thời-gian khá lâu. Một hôm họ du-ngoạn đến thành-phố Ekacakra, có nghĩa “Đô-thị của Một Bánh Xe Ngự-Trị”. Vua của đô-thị này đã bỏ chạy vì con Hạc-qủi Bakàsura cứ đến đòi dâng hiến thịt người cho nó ăn. Nghe vậy, Bhìma đi tìm con Hạc-qủi và đánh nó chết gẫy xương rồi mang xác nó về để trước cổng thành Ekacakra.<br />
<br />
Trong thời-gian vui sống với mẹ là hoàng-hậu Kuntì ở Ekacakra, anh em Pàndava nghe vua Drupada của xứ Pàncàla đang sửa-soạn làm lễ tuổi cập-kê (Svayamvara) rất lớn cho công-chúa Dràupadì. Vì Dràupadì nổi-tiếng xinh đẹp nên vương-tử từ nhiều nước đua nhau tới tranh-tài để mong lấy được nàng. Anh em Pàndava cũng đến kinh-đô, tạm trú tại nhà một người làm đồ gốm. Ngày lễ Svatamvara đến có cả Krishna và anh là Balaràma cũng có mặt tại Pàncàla để tranh tài. Vua Drupada sai người đặt một cái vòng xoay trên đầu một cái cột rất cao, rồi mang ra một cái cung rất lớn và cứng. Nếu vương-tử nào dương được cung ấy và bắn mũi tên xuyên qua tâm cái vòng đang xoay thì vua sẽ gả công-chúa Dràupadì cho.<br />
<br />
Vì đây là một thử thách rất khó nên các chư-thần đếu sa xuống lưng chừng trời để chứng kiến cảnh đua tranh. Lần lượt các vương-tử bước ra thử tài. Có người không dương nổi giây cung. Những người dương được đều bắn không trúng vào tâm vòng đang xoay. Đến lượt Arjuna bước ra không những dương cung dễ-dàng mà còn bắn năm mũi tên mũi nào cũng xuyên qua tâm của cái vòng đang xoay. Vua Drupada và công-chúa Dràupadì vui mừng khôn tả, mặc cho lời thì-thầm phản-đối của một số người trong đó có cả Karna và Salya, vua của xứ Madra, vì họ cho rằng một tu-sĩ Bà La Môn không thể đoạt phần-thưởng nhẽ ra chỉ dành cho giai-cấp võ-sĩ đạo mà thôi.<br />
<br />
Nhẽ ra công-chúa Dràupadì sẽ lấy Arjuna, nhưng anh em Pàndu khuyên Arjuna nên nhường nàng cho người anh cả là Yudhisthira. Arjuna bằng lòng. Như thế vẫn chưa xong vì khi mang nàng Dràupadì về Ekacakra, lúc mới thấy hoàng-hậu Kuntì cả năm anh em reo lên: “Mẹ ơi chúng con được một phần-thưởng lớn lắm!” Bà Kuntì mừng rỡ trả lời: “Nếu thế các con phải chia đều cho nhau.” Vì lời của hoàng-hậu ban ra là luật cho nên Dràupadì trở thành vợ của cả năm anh em Pàndu. Vua Drupada phản-đối một cuộc hôn-nhân như thế, vì đa-phu không phải là truyền-thống trong xã-hội Ân. Nhưng sự đã rồi, hơn nữa ông vốn mến tài Arjuna, và trong chính-trị một liên-minh như thế có lợi cho ông trong tương-lai. Theo sự sắp đặt thì Dràupadì sẽ ở với mỗi người anh em Pàndu hai ngày một lần, tại nhà riêng của họ. Trong thời gian nàng ở với hoàng-tử này thi các hoàng-tử khác không được phép gặp nàng. Dràupadì có với Yudhisthira một cậu trai tên là Prativindhya, với Bhìma cậu Sutasoma, với Arjuna cậu Srutakìti, với Nakula cậu Satànìka, và với Sahadeva cậu Srutakarman. Dĩ nhiên Arjuna là người chồng mà Dràupadì yêu nhất, vì thế khi Arjuna lấy em gái Krishna làm thứ-thê thì Dràupadi ghen lồng lộn.<br />
<br />
<b>8. CHIẾN-TRANH LẠNH</b><br />
Tại kinh-đô Hàstinnapura, anh em Kuru, con của vua Dhrtaràstra đã nghe rõ những gì đang xảy ra ở Pàncàla, nên mới biết rằng anh em Pàndu (Pàndavas) còn sống. Lần này chính vua Dhrtaràstra cũng chống lại anh em Pàndu. Tất cả cha con lại tìm cách hại Pàndu. Họ nghĩ đủ cách để tiêu-diệt đối-phương, chẳng hạn tìm cách chia rẽ anh em Pàndu, dựa trên máu huyết Kuntì và Màdrì. Họ cũng định hối-lộ vua Drupada để ông này về phe họ. Họ cũng tung tin về nghệ-thuật làm tình khác nhau của anh em Pàndu cốt để anh em nhà này ghanh với nhau. Họ còn bịa ra rằng chính nàng Dràupadì bắt qủa tang mấy ông chồng ngủ với phụ-nữ khác. Nhưng những chuyện ấy không thành.<br />
<br />
Trên thực tế, thế-lực của anh em Pàndu đang lên. Họ có những đồng-minh như Dhrstadyumna, con trai của vua Drupada và một người con trai khác cũng của Drupada là Sikhandin, hậu thân của nàng Ambà thất-tình, vốn kiếp trước là con vua xứ Kàsis. Hơn nữa, họ còn có Krishna và cả sắc-tộc Yàdavas của ông ta ủng-hộ. Trước sức-mạnh ấy, anh em Kuru cảm thấy lo sợ. Tổ-phụ Bhìsma và lão-tướng Drona khuyên anh em Kuru nên chia nửa vương-quốc cho anh em Pàndu để tránh binh đao. Phe diều-hâu là Duryodhana và Karna phản-đối kịch-liệt. Nhưng cuối cùng phe chủ hoà thắng thế, và Vidura, người anh em thân thiện với Pàndu được phái tới triều-đình vua Drupada để xin hoà với anh em Pàndu và đón họ cùng với hoàng-hậu Kuntì và Dràupadì trở về Hàstinnapura. Thế là vương-quốc được chia đôi, anh em Pàndu xây dựng một kinh-thành mới ở phía tây bên sông Yamuna, lấy tên là Indraprastha, tức Tân Đề-li ngày nay.<br />
<br />
Tại Indraprastha, Yudhisthira muốn biến nước thành một đế-quốc. Ông mời Krishna đến để xin í-kiến. Krishna trả lời rằng ngày nào bạo-chúa Jaràsamdha, kẻ thù của Krishna, vẫn còn tức-vị, vẫn còn có đám dân Ionian, tức Hi-lạp tiếp-sức, vẫn còn cầm tù khoảng tám mươi vương-tử, và vẫn có í-đồ xâm lược để bắt cho được đủ một trăm vương-tử bỏ tù, thì ngày đó không vua nào có đủ uy-dũng làm hoàng-đế. Nghe xong, Yudhisthira bỏ í-định. Nhưng Bhìma phản-đối tinh-thần nhu-nhược ấy mà ông cho là không xứng đáng phong-cách quân-vương. Do đó, Krishna đề-nghị Bhìma, Arjuna, và ông lên đường diệt bạo-vương Jaràsamdha và giải phóng cho những vương-tử đang bị Jaràsamdha cầm tù.<br />
<br />
Jaràsamdha cũng là một người sinh ra với nguồn-gốc lạ-lùng. Cha ông tên là Brhadratha tuy có hai vợ, nhưng không có con. Ông đến nhờ một hiển-giả giúp đỡ chuyện này. Hiền-giả nhận lời nhưng phải đợi đến khi một qủa xoài rơi vào lòng mình thì ông cắt nó làm hai mảnh rồi đưa cho Brhadratha mang về cho hai bà vợ. Kết qủa là mỗi người vợ sinh ra một nửa hài-nhi, nên phải nhờ phép-thuật của nữ-quỉ Jarà ghép hai mảnh hài-nhi lại làm thành một hài nhi, bởi vậy đứa bé có tên là Jaràsamdha. Chữ Samdha có nghĩa là ghép lại với nhau, còn chữ Jarà có nghĩa là bởi Jarà. Jaràsamdhajarà lớn lên có sức mạnh phi-thường.<br />
<br />
Krishna và hai anh em Arjuna cải trang là ba nhà tu-hành đến triều-đình vua Jaràsamdha và được nhà vua ân-cần tiếp đón. Ngay sau đó Krishna, Bhìma và Arjuna cởi bỏ áo tu tự nhận họ là chiến-sĩ, và thách Jaràsamdha thí võ, một đối một. Jaràsamdha nhận lời và chọn đấu với Bhìma. Cả hai giao-đấu mười hai ngày bất phân thắng bại. Đến ngày thứ mười ba Bhìma giết chết Jaràsamdha, giải thoát cho các vị vương-tôn khỏi nhà tù, và đưa con trai của Jaràsamdha lên làm vua. Krishna, Bhìma và Arjuna trở lại kinh-đô.<br />
<br />
Yudhisthira lập đàn Thụ-thiên (Ràjasùya), một đại lễ vô-tiền khoáng hậu chỉ dành cho vua nào xứng đáng danh-vị hoàng-đế. Tại buổi đăng-quang đó, hiền-gỉa Vyàsa, cha thực của Yudhisthira, cho con trai mình biết một điềm không lành sẽ xảy ra cho toàn giai-cầp võ-sĩ đạo. Duryodhana người anh cả của anh em Kuru cũng có mặt trong buổi lễ đó, chứng kiến cảnh giàu sang thịnh-vượng của Indraprastha và đâm lòng ghen tức. Ông đề nghị với người cậu là Sakuni tìm cách gây chiến với anh em Pàndu để cướp lại nửa vương quốc. Sakuni khuyên không nên động binh, mà nên gài Yudhisthira vào trò chơi sóc-đĩa, một biệt-tài của ông, để đạt mục-đích một cách ôn-hoà. Mới đầu vua Dhrtaràstra không tán-thành chuyện đó, nhưng rồi theo thói quen ông cũng thuận.<br />
<br />
<b>9. VÁN-BÀI Ô-NHỤC</b><br />
Duryodhana cho thiết lập một sòng bạc lớn, và phái em trai mình là Vidura đem thư mời đến Yudhisthira. Vidura bắt buộc phải đi nhưng trong dạ không vui. Yudhisthira nhận lời mời một phần cũng vì lịch-sự, và một phân vì máu cờ bạc mặc dù ông không giỏi chuyện đỏ đen. Tại kinh-đô Hàstinapura, anh em Pàndu được đón tiếp với đầy đủ lễ-nghi triều-đình long trọng. Sau khi khai-mạc sòng bài, Sakuni mời Yudhisthura nhập cuộc. Yudhisthura đã nghe danh Sakuni có tài sóc-đĩa, nhưng vẫn cứ lao đầu vào, và từ từ mang trang-sức, vàng bạc, ngựa xe ra đánh. Sakuni thắng liên-tiếp, còn Yudhisthura càng thua càng cay mang cả bò, cừu, làng mạc, dân-chúng và tài-sản của dân ra đánh. Sakuni được hết. Trong lúc thua cay, Yudhisthura mê-muội mang hết cả anh em và chính mình ra đánh. Sakuni vớ hết, và trái với luật đỏ đen, còn đề-nghị Yudhiathura mang vợ là Dràupadì ra đặt xuống sòng bài. Đề nghị của Sakuni làm cho các vị huynh-trưởng như Drona, Krpa, Bhìsma và ngay cả Vidura và vua Dhrataràstra phẫn-nộ. Nhưng Duryodhana, Karna và đám anh em Kuru hân-hoan cổ-võ. Sakuni thắng, và Dràupadì sẽ phải là thị-tì hầu-hạ anh em Kuru. Duryodhana sai em là Duhsàsana tìm bắt Dràupadì. Hắn nắm tóc Dràupadì lôi vào hội-trường. Trước cảnh đó các vị trưởng-lão cảm-thấy nhục lây. Chính Vikarna, một trong những hoàng-tử của vua Dhrataràstra cũng lên tiếng tố-cáo là trò chơi phạm-luật. Nhưng Duryodhana ngoan cố, trong khi Duhsàsana đi qúa trớn lột quần áo anh em Pàndu và cả Dràupadì. Nhưng một phép lạ xảy ra bảo vệ Dràupadì, vì mỗi lần áo của bà bị cởi ra thì lập-tức có áo mới thế vào. Đến lúc này Bhìma lên tiếng thề rằng một ngày nào đó ông sẽ xé xác “con vật” Duhsàsana và uống máu nó. Ngay tức thời từ trong rừng thú dữ hú vang. Vua Dhrtaràstra tiên-đoán ngay đó là điềm tận-diệt của con cháu mình. Ông gọi Dràupadi và Yudhisthura đến bên ngai xin cả hai tha thứ và trả lại vương-quốc cho họ.<br />
<br />
Sau khi gia-đình Pàndu rời Hàstinapura, Duryodhana mắng cha là đã tử tế với kẻ thù. Ông luận như sau:<br />
<br />
<blockquote class="tr_bq">
<i>*</i>“Ta phải là ta chứ. Nước có bao giờ chảy ngược đâu, ta phải hành-động theo nhiên-tính của mình. Những vị vua hiền-từ đếu bị tiêu-diệt. Chỉ có kẻ nào không bao giờ thoả mãn mới là người hạnh-phúc ... Không có luật nào xác-định ai là kẻ thù. Vấn đề này tùy thuộc vào í-nghĩ của mỗi người. Ta phải bày trò đỏ đen để tiêu-diệt anh em Pàndu. Đuổi chúng ra khỏi vương-quốc của ta. Tại sao lại để chúng cai trị nửa quốc-gia? Hãy làm một bàn sóc-đĩa một lần nữa. Sóc một lần mà thôi. Ai thua phải đi vào rừng mà ở.”*<br />
Vua Dhrtaràstra già nua lẩn-thẩn lại nghe con cho phép bày trò sóc-đĩa với Sakuni ném con lúc-lắc, và mời Yudhiathura đến đánh một lần nữa. Yudhiathura lại ngớ-ngẩn nhận lời.<br />
*Yudhiathura: “Nếu ông thắng thì ông có để chúng tôi yên?”<br />
Duryodhana: “Chúng ta sẽ không còn là đối-thủ của nhau nữa. Nếu tôi thua, thì tôi, Duhsasana, Karna, và cậu Sakuni sẽ phải vào trong rừng ở đúng mười hai năm. Năm thứ muời ba chúng tôi sẽ mai danh ẩn tích trong một đô-thị. Nếu tông-tích bị lộ thì chúng tôi sẽ phải vào rừng ở lại mười hai năm nữa, rồi năm thứ mười ba cũng lại như tôi đã vừa nói. Còn nếu ông thua thì ông và các em của ông cũng phải theo những điều-kiện như tôi vừa nói.”<br />
Yudhiathura: “Sau đó thì sao?”<br />
Duryodhana: “Người thua lại được trao trả vương-quớc.”<br />
Yudhiathura: “Tôi đâu có sợ.”<br />
Sakuni nắm con lúc-lắc trong tay.<br />
Bhìma: “ Bảy!”<br />
Sakuni ném con lúc lắc xuống, Duryodhana nhìn theo, nói nhẹ nhàng: “Sáu!”<i>*</i></blockquote>
<i><br /></i>
Như vậy anh em Pàndu phải lưu-vong. Drona và Vidura hoảng sợ vì họ tiên-đoán lúc qủa báo trước công-lí, giòng Kàuravas sẽ bị tận-diệt. Duryodhana vỗ-đùi cuời ha hả, khiến Vidura phải thốt lời nguyền rủa là sau này trên chiến-trường Duryodhana sẽ bị Bhìma đánh gẫy hai chân và chết nếu ông ta thi hành kế-hoạch xấu xa.<br />
<br />
<b>10. LƯU-VONG</b><br />
Vidura, ghê tởm âm-mưu của ông anh, nên mời bà Kuntì ở lại với gia-đình mình, chỉ để anh em Pàndu lưu vong mà thôi. Ông nói: “Khi các anh từ rừng sâu trở về, các anh sẽ mạnh hơn ngày hôn nay. Em mong mặt trăng ban cho các anh hạnh-phúc, và địa-cầu ban cho các anh lòng kiên-nhẫn. Các anh đừng quên những gì các anh đã học hỏi từ kinh-nghiệm lưu-vong trước.” Í ông muốn nhắc tới thời-gian sau khi anh em Pàndu thoát nạn cháy trong ngày lễ thần Shiva.<br />
<br />
Trong thời gian có chuyện đỏ-đen tại Hàstinapura, Krishna từ xa phải trở về giải vây kinh-thành Dvàrakà của mình khỏi tay vua Sàlva. Bạn của ông vua này là Sisupàla bị Krishna giết chết. Sau khi giải vây thành Dvàrakà, Krishna vào trong rừng gặp anh em Pàndu. Ông mang theo cả bộ hạ và nhiều người thuộc bộ lạc Bhoja và Vrsni, kể cả vua xứ Cedi là Dhrstaketu, và các chiến-sĩ nhóm Kekaya, vốn có thiện cảm với anh em Pàndu. Krishna an-ủi anh em Pàndu rồi mang Subhadrà, em gái mình và là thứ thê của Arjuna cùng với cậu bé Abhimanyu, con trai của Sbhadrà và Arjuna về kinh-đô Dvàrakà săn sóc.<br />
<br />
Anh em Pàndu chia tay nhau đi hành-hương. Trước hết, Arjuna vào rặng Hi-mã Lạp-sơn tu-hành khổ hạnh. Một hôm ông bị một con lợn rừng phóng tới, ông rút cung tên bắn con vật, nhưng cùng lúc ấy có một nhà săn-bắn khác cũng bắn trúng con vật. Cả hai đều cho là mình bắn chết con lợn rừng, không ai chịu ai. Cuối cùng cả hai thí võ. Arjuna để í là khi ông đành trúng đối-phương thì đối-phương không hề hấn gì cả, còn khi đối-phương đánh trúng ông thì ông bị thương. Cuối cùng Arjuna nhận ra người thợ săn kia là thần Shiva. Ông xin lỗi thấn. Thần Shiva lập tức chữa các vết-thương cho ông, và còn ban cho ông sức mạnh gấp trăm lần. Sau đó Shiva chở Arjuna lên xe của thần vào lĩnh-địa của thần Indra để nghỉ ngơi một thời-gian ở đó và để các chư thần ban cho ông nhiều võ-khí linh-thiêng khác.<br />
<br />
Trong khi ấy, bất chấp lời khuyên của vua Dhrtaràstra, Duryodhana và mấy người em cùng Karna vẫn hay vào rừng chế riễu anh em Pàndu. Lần này họ vô-í tấn công một nhóm nhạc-sĩ thiên-cung và bị thua sau một trận giao-phong dữ dội. May thay họ được chính Yudhisthira cứu sống, và cũng vì nhóm nhạc-sĩ thiên-cung không muốn đánh với Yudhisthira. Nhóm Duryodhana cảm thấy ê-chề nhục-nhã.<br />
<br />
Năm thứ mười ba bắt đầu, anh em Pàndu cải trang đến triều-đình vua Viràta của xứ Matsyas xin làm gia-nô. Yudhisthira là hầu-cận, Bhìma nấu ăn, Arjuna là hoạn-quan, Nakula coi chuồng ngựa, Sahadeva là mục-đồng của nhà vua, còn Dràupadì trở thành nữ-tì của hoàng-hậu và công-chúa. Nhưng nhan-sắc của Dràupadì không lọt qua cặp mắt của Kìcaka, vị tổng-tư lệnh quân-đội của Matsyas. Kìcaka không những theo đuổi mà còn định hiếp Dràupadì. Trước tình-thế ấy, Dràupadì phải giả bộ mời Kìcaka vào cung, và dặn Bhìma tới giúp nàng. Kìcaka xuất-hiện và bị Bhìma đánh chết. Cái chết của Kìcaka khiến triều-đình nghi ngờ và e-ngại sự có mặt của Dràupadì, nên nhà vua yêu cầu nàng ra đi. Dràupadì năn nỉ xin thêm một tháng, cho đúng kì hạn chấm dứt lưu-vong.<br />
<br />
Trong thời-gian một tháng này, cái tin Kìcaka bị giết vang đến cả Hàstinapura. Vì Kìcaka là một dũng-tướng chỉ có những người phi-thường như Bhìma mới có thể hạ-thủ được, nên anh em Kuru nghi là anh em Pàndu đang ở Matsyas. Duryodhana dự định xâm-lăng Matsys. Í này được tiểu-vương Susarman của xứ Trigarta gần thành-phố Lahore ngày nay nhiệt-liệt tán-thành. Số là Susarman và Viràta có chuyện bất hoà, nhưng Susarman không dám gây hấn vì e ngại Kìcaka. Duryodhana và Susarman tấn công Matsyas bằng hai ngả. Vua Viràta tiếc là Kìcaka không còn để đương-đầu với ngoại xâm. Yudhisthira tiến lên thưa rằng, dù anh em ông là kẻ tu-hành, nhưng cũng có chút võ-nghệ, có thể đương đầu được với Susarman, nếu vua Viràta trao quân-đội cho ông và các em của ông. Viràta đành phải nghe. Trong một trận đánh lớn vua Viràta chẳng may bị bắt. Bhìma định nhổ cây để cứu, nhưng Yudhisthira khuyên chớ làm, vì sợ lộ tung-tích. Bhìma lên chiến xa đẩy lui quân của Sursarman và giải cứu vua Viràta, ca khúc khải-hoàn trở lại Matsys. Trong khi ấy quân của Duryodhana tiến vào Matsysas bằng ngả khác, cướp hết trâu bò vốn là nguồn kinh-tế của Matsysas. Hoàng-tử Uttara, con vua Viràta, nghe biết Arjuna, dù là một hoạn-quan, nhưng đã từng là chiến-sĩ lái chiến xa, nên Uttara nhờ Arjuna cầm cương đưa mình ra nghênh chiến. Vì là lần đầu lâm-trận, mới thấy quân anh em Kuru dàn hàng, Uttara kinh-hồn định bỏ chạy. Arjuna phải cố gắng giữ lại và lên chiến xa chiến-đấu để cho Uttara cầm cương. Sau đó Arjuna đi lấy binh-khí của mình giấu ở trên cây, rồi thổi chiếc tù và Devadatta. Nghe tiếng tù-và, Drona và Bhìsma nhận ra ngay là Arjuna, nhưng thời hạn lưu-vong đã hết. Drona đề nghị Duryodhana mang quân về Hastinapura với đàn trâu bò, còn ông với Bhìsma, Krpa, Karna và Asvatthàman, con trai của Drona ở lại giao-chiến với Arjuna. Arjuna đem quân đi vòng đuổi theo Duryodhana và lấy lại được hết trâu bò rồi mới quay lại tấn công quân Drona và các chiến-tướng của Kuru. Ông hạ hết tất cả, đặc biệt dùng một loại võ khí linh-thiêng đánh họ ngã bất tỉnh rồi ra lênh lột hết quần áo của họ. Drona và tàn quân nhục-nhã rút về Hastinapura. Arjuna lại đem vũ-khí dấu lên cây, mặc quần áo hoạn-quan, và báo tiệp chiến-thắng của hoàng-tử Uttara về triều-đình.Tại kinh-đô, Uttara trình bày với vua cha về vĩ-công của Arjuna. Lúc đó anh em Pàndu mới để lộ tung-tích của mình, vì thời-hạn lưu-vong đã hết.<br />
<br />
<b>11. ĐẠI-CHIẾN</b><br />
<b><br /></b>
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjUlCxMn6_o7I2SYVyKmBqByqTs35GQgIANQApJKb8m4ofi_8pJlyN-A6ozpaLBNnxF0Te_fdVX7hCisvnTVgwCmIrfiT6R4Rcr4M8OdeXnRoNumT8OM4JukPgoDmNtoNAeSRu_kOUt2is/s1600/mahabharata.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="342" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjUlCxMn6_o7I2SYVyKmBqByqTs35GQgIANQApJKb8m4ofi_8pJlyN-A6ozpaLBNnxF0Te_fdVX7hCisvnTVgwCmIrfiT6R4Rcr4M8OdeXnRoNumT8OM4JukPgoDmNtoNAeSRu_kOUt2is/s400/mahabharata.jpg" width="400" /></a></div>
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<br /></div>
Anh em Pàndu được phép đến ở Upaplavya, một thành-phố trong lãnh-thổ của Viràta. Tại đây, họ mời thân-thích và đồng-minh đến hop mặt để tính chuyện đòi lại vương-quốc. Lần lượt đến họp mặt, dẫn đầu bởi Krishna, có Balaràma (anh trai Krishna), Subhadrà (vợ thứ của Arjuna), Abbhimanyu (con trai Arjuna), các chiến-sĩ Yàdava, vua nước Kàsis và Sàibya, vua Sibi, vua Drupada mang cả một đội hùng-binh đến, với sự hiện-diện của hai con trai là Sikhandin (hậu-thân của nàng Ambà) và Dhrstadyumna. Anh em bà con của Krishna là Sàtyaki cũng đến. Triều-đình lưu-vong quyết-định cử một sa-môn đến Hastinapura xin Duryodhana thi hành lời giao-ước trả lại đất cho anh em Pàndu. Tổ-phụ Bhìsma khuyên nên làm, nhưng phe diều-hâu và đặc biệt Karna phản-đối. Thế là chiến-tranh sẽ xảy ra.<br />
<br />
Duryodhana đến gặp Krishna xin giúp sức. Krishna cho Duryodhana và Arjuna được lựa chọn giữa mình, chỉ là người điều-khiển chiến-xa, và quân-đội của mình. Dĩ-nhiên, Duryodhana chọn quân, cò Arjuna chọn Krishna. Anh trai của Krishna là Balaràma xin đứng ngoài vòng chiến. Cả hai phe ráo riết động-binh. Vua Dhrtaràtra cử Samjaya đến gặp anh em Pàndu để xin hoà. Samjaya nói thẳng là ông chỉ là sứ-giả chuyển í riêng của vua Dhrtaràtra, còn hoà hay chiến là do anh em Kuru quyết-định. Bà Dràupadì, vợ chung của anh em Pàndu quyết-định hi-sinh bằng mọi thứ để trả thù cái nhục của bà. Một lần nữa Krishna thân đến gặp Duryodhana để bàn chuyện bãi binh, nhưng Duryodhana từ chối. Trước tình-thế ấy, hoàng-hậu Kuntì đến gặp Karna, khi ấy đang thiền-định bên sông. Bà cho Karna biết là ông ta không phải là con của chiến-sĩ điều-khiển chiến xa, mà con của bà và thần mặt Trời. Karna xiết nỗi vui mừng, nhưng thưa với mẹ đã qúa muộn, vì hận-thù với Arjuna, Yudhisthira và Bhìma cần phải được thanh-toán. Tuy nhiên, khi đối trận, Karna hứa với mẹ là chỉ tử-chiến với Arjuna mà thôi.<br />
<br />
Cả hai phe thoả-thuận chọn cánh-đồng Kuruksetra, nằm về phía bắc giữa Hastinapura và Indraorastna, là nơi giao-chiến. Cứ dựa vào sử-sách thì trận-đánh này đã xảy ra giữa khoảng 800 và 600 trước Công-nguyên. Lực-lượng của hai phe như sau:<br />
<br />
<b>PÀNDU (Pàndavas) KURU (Kàuravas)</b><br />
7 sư-đoàn 12 sư-đoàn<br />
[mỗi sư-đoàn gốm có 21,670 cỗ xe, 21,670 con voi trận, 65,010 kị-binh, và 108,350 bộ-binh]<br />
<br />
Tính tổng-cộng, phe Pàndu có Tính tổng-cộng, phe Kuru có<br />
153,090 cỗ xe, 153,090 con voi trận, 240,570 cỗ xe, 240,570 con voi trận,<br />
459,270 kị-binh và 765,450 bộ-binh. 721,710 kị-binh và 1,300,200 bộ-binh.<br />
<br />
[Dù những con số trên có thể được phóng-đại cho hợp với tinh-thần huyền-thoại, nhưng nếu<br />
so sánh với quân-lực của vương-quốc Ba-tư thời đó thì ta thấy có thể hiểu được.]<br />
<br />
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg48W7TmhadveJqMVesqJIOlTOonCCUNmkk1PxG0Q80hvrLIT22smMsZMFn7rqjyF252dYuL8AxC8Ok9uXCL9F8wmK5zLNPPGy9K617UEIu03vtULL_7KzQiauV-tQNUa5JkRNVAqe1OLU/s1600/tumblr_m29d787fNj1qft6tco1_500.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" height="201" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg48W7TmhadveJqMVesqJIOlTOonCCUNmkk1PxG0Q80hvrLIT22smMsZMFn7rqjyF252dYuL8AxC8Ok9uXCL9F8wmK5zLNPPGy9K617UEIu03vtULL_7KzQiauV-tQNUa5JkRNVAqe1OLU/s400/tumblr_m29d787fNj1qft6tco1_500.jpg" width="400" /></a>
<br />
<br />
Sau đây là các vị tư-lệnh và chiến-tướng của hai phe:<br />
<br />
<i>Yudhisthira, Hoàng-đế, con Thần Chính-Pháp. Duryodhana, anh cả nhóm Kuru</i><br />
<i>Arjuna, con Thần Indra, anh em Pàndu Sakuni, cậu của Duryodhana.</i><br />
<i>Bhìma, con Thần Gió Vàyu, anh em Pàndu Duhsàsana, anh em Kuru</i><br />
<i>Nakula, con kị-sĩ thiên-cung, anh em Pàndu Bhìsma, tổ-phụ</i><br />
<i>Sahadeva, con kị-sĩ thiên-cung, anh em Pàndu Drona, lão-tướng</i><br />
<i>Drupada, vua nước Pàncàla Karna, con thần Mặt-Trời</i><br />
<i>Dhrstadyumna, Nguyên-soái Krpa, Nguyên-soái</i><br />
<i>Sikhandin, hiện-thân nàng Ambà Sudaksina, vua xứ Kamboja</i><br />
<i>Abhimanyu, con trai của Arjuna Bhagadatta, vua xứ Pràgjyotisa</i><br />
<i>Sàtyaki (Yuyudhàna), vua nhóm Vrsni Salya, vua xứ Madra</i><br />
<i>Viràta, vua xứ Matsya Sàlva, vua xứ Sàlva</i><br />
<i>Uttara, con vua Viràta, đồng-hao Abhimanyu Jayadratha, vua Sindhu-Sàuvira</i><br />
<i>Sahadeva, vua xứ Màgadha Sùrasena, vua xứ Mathurà</i><br />
<i>Ghatotkaca, con trai Bhìma Krtavarman, một đồng-minh</i><br />
<i>Iràvat, con trai Arjuna với Nàga Bhùrisravas, vua xứ Somadatta</i><br />
<i>Dhrstaketu, vua xứ Cedis Citrasena, anh em Kuru</i><br />
<i>Cekitàna, vương-tử Vinda, anh em Kuru</i><br />
<i>Krishna, hiện-thân của Vishnu Kalingas</i><br />
<i>Sveta Asvatthàman</i><br />
<i>Samga Kàuravas</i><br />
<i>Vrka Srutàyo</i><br />
<i>Satyajit Alambura</i><br />
<i>Santànika Susarman</i><br />
<i>Yuyutsu Laksmana</i><br />
<i>Yugdhàmanyu Vrsa</i><br />
<i>Uttamàuja Acala</i><br />
<i>Prativindhaya Angas</i><br />
<i>Sutasoma Jalasamdha</i><br />
<i>Srutakìrti</i><br />
<i><br /></i>
<b>Luật chiến-tranh:</b> Một đấu một, tướng đấu với tướng, chiến-xa đấu với chiến xa, kị-binh đấu với kị-binh, bộ-binh đấu với bộ-binh. Giao-chiến giữa ban ngày, hưu chiến khi mặt trời lặn. Không được giết đối-thủ đã bỏ chạy hoặc ngồi trong tư-thế thiền-định Yoga. Ai đã hàng thì phải tha. Bộ binh không được giết ngựa. Không được tấn-công người không có võ khí, người đánh-trống, thổi tù-và và cả người điều-khiển chiến xa. Tuy nhiên, chiến-tranh nào cũng thế, khi đã hăng say thì qui-luật trở thành vô-dụng.<br />
<br />
<b>NGÀY THỨ NHẤT</b><br />
Bhìsma đấu với chắt của ông là Abhimanyu, tức con trai của Arjuna bất phân thắng bại. Sylya tiếp sức cho Bhìsma. Uttara đấu với Salya và vô í giết ngựa của Salya. Salya giết Uttara. Sveta đấu với Salya, và một mình đầy lui quân Kuru, nhưng cuối cùng bị Bhìsma giết chết. Phía Pàndu mất hai đại-tướng.<br />
<br />
<b>NGÀY THỨ HAI</b><br />
Nguyên-soái Dhrdadyumna dàn quân Pàndu rất chặt chẽ, nhưng lão-tướng Bhìsma tấn công rất có hiệu-qủa. Arjuna bảo Krishna: “Chắc phải giết cụ này mất.” Nói xong Arjuna tấn-công Bhìma, nhóm Kuru cố gắng bảo vệ Bhìsma, nhưng bị Arjuna đầy lui. Bhìsma bắn vào Krishna khiến Arjuna nổi giận đánh Bhìsma, nhưng vẫn chưa giết được ông. Trong khi ấy Drona tấn-công Dhrdadyumna. Thấy Dhrdadyumna có vẻ yếu thế, Bhìma lướt tới đưa vị nguyên-soái sang chiến-xa của mình. Duryodhana phái Kalingas mang quân tới tấn công Bhìma. Bhìma giết một số lớn quân của Kalingas rồi tới cứu Kalingas. Sàtyaki và Abhimanyu cũng lướt tới trợ lực Bhìma. Sàtyaki giết chết chiến-sĩ điều-khiển chiến-xa của Bhìsma (phạm-luật) khiến Bhìsma phải bỏ chạy. Quân Kuru bị đẩy lui.<br />
<br />
<b>NGÀY THƯ BA</b><br />
Anh em Kuru tấn-công Arjuna. Sakuni tấn-công Sàtyaki. Abhimanyu cứu Sàtyaki vì chiến-xa của Sàtyaki bị vỡ. Drona và Bhìsma tấn-công Yudhisthira. Bhìma và con là Ghatotkaca chiến-đấu anh-dũng với Duryodhana. Duryodhana bị tên của Bhìma ngã chết ngất trong xe nên chiến-sĩ đánh xe phải bỏ chạy thục mạng. Bhìma lại giết được rất nhiều quân của Kuru. Bhìsma và Drona chỉnh-đốn lại quân-đội rồi cùng với Duryodhana, đã lai-tỉnh, trở lại chiến-trường. Duryodhana trách Bhìsma không chiến-đấu hết mình. Bhìsma tấn-công mãnh-liệt, quân Kuru chạy tứ-tán. Krishna bảo Arjuna tấn công Bhísma, nhưng Arjuna không nỡ. Bhìsma rút lui và hết lời ca-ngợi đối-phương.<br />
<br />
<b>NGÀY THỨ TƯ</b><br />
Bhìsma, Drona và Duryodhana tiến quân. Asvatthàman, Bhùrisravas, Salya và Citrasena cùng vây Abhimanyu. Arjuna vội tới cứu con, và Dhrstadyumna đem quân tiếp ứng. Bhìma xuất-hiện, Kàuravas vội thúc cả đàn voi trận lớn đến cản Bhìma. Nhưng Bhìma làm đám voi tán-loạn dày xéo lên quân của Kuru. Thừa thắng Bhìma tiến lên và suýt giết được Duryodhana. Bhìma bắn gẫy cung của Duryodhana làm hai. Duryodhana trả đũa rất mạnh khiến Bhìma phải ngồi xuống đất. Ghatotkata lướt tới giúp cha. Bhìma vung lên giết tám anh em Kuru. Một ngày đại-thắng cho phe Pàndu. Bhìsma đề-nghị hoà-bình nhưng Duryodhana không nghe.<br />
<br />
<b>NGÀY THỨ NĂM</b><br />
Bhìsma tấn-công quân Pàndu dữ dội. Arjuna tấn công Bhìsma. Duryodhana than-phiền với Drona là những cuộc tấn-công của quân mình qúa yếu. Drona tấn-công Sàtyaki, Bhìma vội vàng đến cứu. Drona, Bhìsma và Sàtyaki cùng tấn-công Bhìma, nên Sikhandin phải vội vàng tiếp cứu. Thấy Sikhandin, Bhìsma nhận ra tiền-thân của nàng Ambà, nên quay trở lại. Drona đẩy lui được Sikhadin. Trong cuộc giao-tranh hỗn-loạn, các con trai của Sàtyaki đều chết về tay Bhùrisravas. Sàtyaki đấu với Bhùrisravas. Bhìma cứu Sàtyaki, còn Duryoddhana cứu Bhùrisravas. Arjuna giết cả nghìn quân Kuru. Một ngày vinh-quang cho phe Pàndu.<br />
<br />
<b>NGÀY THỨ SÁU</b><br />
Chiến-sĩ điều-khiển chiến xa của Drona bị giết (phạm-luật). Một mình Bhìma đánh bảy anh em Kuru. Ông bỏ xe chạy bộ vung chùy sắt đuổi họ ra tận hậu-quân của Kuru, khiến cho Dhrstadyumana phải theo sau phòng khi Bhìma sơ xuất. Duryodhana và các em vây đánh Bhìma và Dhrstadyumana khiến cho Dhrstadyumana phải dùng một loại hơi ngạt (học được của Drona) chống lại. Rồi đến lượt chính Duryodhana cũng sử dụng hơi ngạt ấy. Yughisthira mang quân tới tiếp-viện cho Bhìma. Drona giết ngựa và đập nát chiến-xa của Dhrstadyumana (phạm luật). Abhimanyu cứu Dhrstadyumana và đưa sang chiến xa của mình. Phía Pàndu hỗn-loạn vì Bhìsma. Duryodhana bị Bhìma đánh trọng thương may nhờ Krpa cứu thoát. Coi như phe Kuru thắng ngày hôm nay.<br />
<br />
<b>NGÀY THỨ BẢY</b><br />
Viràta bị Drona đánh bại. Samga, con trai của Viràta bị tử-thương. Nhưng phe Kuru còn bị nặng hơn. Yudhisthira đánh bại Srutàyu, giết luôn ngựa và chiến-sĩ đánh xe cho ông ta (phạm luật). Quân-đội của Duryodhana xuống tinh-thần. Cekitàna tấn công Krpa, giết luôn ngựa và chiến-sĩ đánh xe cho ông ta (phạm luật). Krpa tức qúa thách Cekitàna xuống đất giao-tranh. Cả hai thương-tích cùng mình và cùng lả ra vì kiệt sức. Bhìma đưa Cekitàna lên xe về. Sakuni cũng cứu Krpa. Bhìsma tấn công Abhimanyu nhưng Arjuna xông ra cứu con. Tất cả anh em Pàndu cùng giao chiến với Bhìsma. Hoàng hôn đến, cả hai bên thu quân về để chữa chạy vết thương.<br />
<br />
<b>NGÀY THỨ TÁM</b><br />
Bhìma giết tám anh em Kuru. Iràvat, con trai của Arjuna có với công-chúa Nàga bị Alambusa giết. Arjuna rất buồn. Ghatotkaca tàn-sát rất nhiều quân-đội Kuru, và suýt nữa giết chết Duryodhana, nếu Drona không đến cứu kịp. Thêm mười sáu anh em Kuru bỏ mình trong ngày.<br />
<br />
<b>NGÀY THỨ CHÍN</b><br />
Bhìsma giết cả nghìn quân Pàndu. Abhimanuyu đánh bại Alambusa. Sàtyaki giao-chiến với Asvatthàman. Drona giao-chiến với Arjuna, rồi Bhìsma lại tấn-công anh em Pàndu. Krishna bảo Arjuna giết Bhìsma đi, nhưng Arjuna không nỡ ra tay. Krishna bực mình bước xuống xe bảo Arjuna đi bộ đánh với Bhìsma. Arjuna vội vàng giữ ông lại. Một ngày chiến-thắng cho phe Kuru.<br />
<br />
<b>NGÀY THỨ MƯỜI</b><br />
Arjuna chọn Sikhandin lái xe cho mình. Arjuna tấn công Bhìsma. Khi Sikhandin bắn Bhìsma, Arjuna bắn theo ngay một loạt tên đều xuyên qua áo giáp của Bhìsma ở những điểm mà Sikhandin bắn trượt. Bhìsma bị trọng-thương chết từ từ. Ông tuyên bố là ông chết vì những mũi tên của Arjuna, và đó là một vinh-dự. Nhưng Sikhandin cho là mình bắn chết Bhìsma, để hoàn tất lời thề, vì ông chính là hậu-thân của nàng Ambà. Thần-linh trên trời khoanh tay cúi chào khi Bhìsma bị hạ. Hai bên cùng ngưng giao-chiến để tỏ lòng tôn-kính lão tướng. Bhìsma xin uống nước, Arjuna bắn một mũi tên xuống đất, từ đó một giòng nước của giải sông Hằng tuôn ra để cho người con khỏi khát. Bhìsma mong hai bên giảng-hoà. Karna lại gần xin cụ ban phép lành. Bhìsma khuyên Karna đừng đánh nữa. Nhưng Karna thưa rằng vì ông ta đã chót theo Duryodhana, nên ông phải theo đến cùng. Bhìsma cố kéo dài cái chết trong năm mươi tám ngày, cho đúng chu-kì mặt trời về phương bắc để ông nhập niết-bàn.<br />
<br />
<b>NGÀY THỨ MƯỜI MỘT</b><br />
Thấy thắng bằng quân-sự khó qúa, Duryodhana nhờ Drona cố gắng bắt sống Yudhisthira, để ép vào cuộc đỏ đen một lần nữa. Nhưng Yudhiisthira phóng lên ngựa chạy thoát. Nakula đánh bại Salya và Krpa đánh bại Dhrstaketu. Satyaki đánh với Krtavarman, Viràta đánh với Karna, Abhimanyu đánh với bốn anh em Kuru một lượt. Bhìma hạ Salya. Anh em Kuru mất tinh-thần. Drona lại cố gắng bắt sống Yudhisthira nhưng bị Arjuna đánh bại và bị đẩy lui. Một ngày đại bại cho phe Kuru.<br />
<br />
<b>NGÀY THỨ MƯỜI HAI</b><br />
Anh em Kuru thấy không thể bắt được Yudhisthira vì Arjuna có mặt, nên họ lập cách dụ Arjuna đi chỗ khác và giết đi. Susarman và bốn anh em tấn-công Arjuna nhưng bị Arjuna giết chết hết. Drona lại cố bắt Yudhisthira nhưng Dhrstadyumna và các vương-tử Pàncàla che chở cho Yudhisthira. Dhrstadyumna tấn công Drona. Nhưng Drona tránh đi để tìm cách bắt Yudhisthira. Song le Drupada chặn đường. Drona tấn-công Drupada rồi tìm cách lại gần Yudhisthira. Hai hoàng-tử Pàncàla là Vrka và Satyajit đều tử trận, còn Satànika con của vua Viràta bị Drona giết chết. Thứ đến là một trận đấu anh hùng nhất xảy ra khi Abhimanyu chọc thủng đạo quân Kuru mới biết là mình bị vây. Abhimanyu trổ tài qủa cảm đẩy lui quân đội Kuru, kể cả Duryodhaana. Phe Pàndu cố gắng đến tiếp cứu Abhimanyu nhưng bị đẩy lui. Nhóm Kuru cùng nhào đến một lượt tước vũ-khí của Abhimanyu. Nhưng viên tướng trẻ này vẫn anh-dũng dùng bánh xe đánh lại. Cuối cùng con trai của Duhsàsana là Laksmana đánh Abhimanyu ngã xuống đất và giết luôn. Yuyutsu con trai của Dhrtaràstra chiến đấu cho phe Pàndu chứng kiến cảnh đó thấy qúa ghê-tởm bỏ chiến-trường. Yudhisthira tự trách vì mình mà Abhimanyu tử trận. Arjuna thề sẽ ghiết Jayadratha để trả thù cho con, vì ông vua này bày kế nhử cho Abhimanyu vào bẫy.<br />
<br />
Trận chiến vẫn tiếp-tục, quân đội Kuru tan nát. Bhagadatta tức-giận tấn công Bhìma, đập tan chiến xa và giết ngựa của Bhìma. Bhìma đi chân đất đâm vào sườn voi của Bhagadatta khiến con vật phát điên vì đau. Đến lúc này không còn luật lệ chiến-tranh nữa. Arjuna giết luôn cả Bhagadatta và con voi của ông. Anh em Vrsa và Acala cố gắng tập họp quân-đội Kuru lại nhưng cả hai đều bị Arjuna giết chết. Sakuni tấn công Arjuna, nhưng bị thua đành phải bỏ chạy.<br />
<br />
<b>NGÀY THỨ MƯỜI BA</b><br />
Arjuna bắn tên tua tủa như mưa xuyên thủng đội-ngũ Kuru, khiến nhiều tướng tá và quân đội Kuru phải bỏ chạy. Duhsàsana nổi giận mang một đội binh voi lướt tới Arjuna. Arjuna bắn chết hết đàn voi trận khiến cho đội quân của Duhsàsana và cả ông cũng phải bỏ chạy xin Drona che chở. Arjuna tấn công đạo quân của Drona với í-định tìm Jaysdratha. Yugdhàmanyu và Uttamàuja theo sau bảo vệ Arjuna. Arjuna tàn sát quân Kuru kể cả đoàn voi do Angas và Kalingas mang đến. Arjuna vẫn tiếp tục giết các chiến-sĩ phe địch, kề cả ngựa voi. Trong khi đó Bhìma tấn công Jalasamdha, con trai của vua Dhrtaràstra. Còn Yudhisthira đấu với Krtavarman, Dhrstadyumana đấu với Drona. Thấy Sàtyaki tàn sát quân Kuru, Drona lướt tới đánh. Đến lúc này Arjuna đang đánh quân của Jayadratha, thổi tù và inh-ỏi lên khiến Yudhisthira tưởng là Arjuna gặp khó khăn bèn sai Sàtyaki đến tiếp cứu. Thế rồi Bhìma tấn công Drona có hiệu-qủa, rồi đánh bật phòng-tuyến Kuru để tìm Arjuna. Karna đẩy lui Bhìma. Năm anh em Kuru tấn công Bhìma nhưng đều bị bại.<br />
<br />
<b>NGÀY THỨ MƯỜI BỐN</b><br />
Bhùrisiravas, hoàng-tử con vua Bàhikas tiến lên đấu với vua Sàtyaki, một thân-tộc của Krishna. Bhùrisiravas đánh Bàhikas ngã xuống đất rồi nắm tóc Bàhikas vừa lôi đi vừa đá vào ngực. Từ xa, Arjuna đang đánh với Jayadratha, thấy cảnh đó dương cung bắn đứt cánh tay phải của Bhùrisiravas. Bhùrisiravas vội ngồi xuống đất toạ-thiền, Bàhikas đứng dậy chém đầu Bhùrisiravas. Arjuna tấn-công Jayadratha dữ dội. Cha của Jayadratha là Vrddhaksatra vốn có lời nguyền rằng “ai chém đầu con trai ông, thì đầu người đó sẽ vỡ ra thành trăm mảnh”. Krishna lưu-í Arjuna lời nguyền đó, nên khi Arjuna chém đầu Jayadratha, thì ông bắn ra những mũi tên đưa đầu của Jayadratha vào lòng Vrddhaksatra đang tham thiền gần đó. Khi Vrddhaksatra ra khỏi trầm-thiền ông đứng dậy thì đầu của con ông rơi xuống đất vỡ thành trăm mảnh. Arjuna trả thù được cho con trai. Trận đánh ngày hôm nay kéo dài đến tối và hai bên phải đốt đuốc để tiếp-tục giao-tranh. Drona giết Drupada và cả con trai của Drupada là Viràta.<br />
<br />
<b>NGÀY THỨ MƯỜI LĂM</b><br />
Cho đến ngày hôm nay đạo-đức hiệp-sĩ không còn nữa. Ngay cả Krishna cũng quên mình là hiện-thân hay sứ-gỉa của tinh-thần vô-thượng, tức thần Vishnu. Ông đề nghị lấy tên của Asvatthàman, con trai của Drona đặt tên cho một con voi trận rồi giết ngay trên chiến-trường. Cái tin Asvatthàman chết được tung đi, và trong lúc hỗn quân hỗn quan, Drona tưởng con mình tử-trận, ông yêu cầu Yudhisthira xác-định chuyện đó, vì ông tin Yudhisthira, với danh chính-pháp, không bao giờ nói dối. Nhưng lúc này đâu còn chuyện danh-dự nữa, nên Yudhisthira đã nói láo là Asvatthàman chết. Nghe tin, Drona buồn qúa để binh-khí xuống, tức thời Dhrstadyumana lướt tới chém đầu Drona, trả thù được cho cha là Drapuda. Drona chết rồi, Karna lên làm nguyên-soái thống lĩnh quân-đội Kuru.<br />
<br />
<b>NGÀY THỨ MƯỜI SÁU</b><br />
Karna thách Yudhisthira giao-đấu. Nhưng trong lúc giao-tranh Yudhisthira lại một lần nữa chịu nhục bỏ chạy. Trong lúc ấy Bhìma xông tới Duhsàsana vì ông nhớ đến lúc Duhsàsana làm nhục Dràupadì. Bhìma xé xác Duhsàsana và uống máu trưóc ba quân, khiến chiến-sĩ đôi bên kinh-hoàng về hành-động của Bhìma.<br />
<br />
<b>NGÀY THỨ MƯỜI BẢY</b><br />
Arjuna và Karna tử-chiến suốt ngày cho đến khi một bánh xe của Karna lún xuống bùn. Karna phải xuống chiến xa đẩy bánh lên, nhưng không thành-công.<br />
<br />
<blockquote class="tr_bq">
*Thấy Arjuna dương cung ngắm mình, Karna khóc bảo: “Arjuna. Ta đang ỏ trên mặt đất. Chờ đã. Đừng hèn như thế!” Arjuna vẫn ngắm. Karna nhủ-thầm: “Ta nguy rồi.” Nói xong Karna nhẩy lên xe. Ông muốn dùng vũ-khí Sakti, nhưng không nhớ thần-trú Mantra. Ông đành dùng phi-tiêu Naikartana của thần Indra cho. Tức thới sấm dậy vang lừng trong khi trời xanh trong trẻo. Muông thú hoảng sợ bỏ chạy tứ tán. Karna ném phi-tiêu và hét lên: “Arjuna. Mày phải chết!” Mũi phi-tiêu bay sẹt lửa ra khỏi cánh, tăng thêm tốc độ xé không-gian, ngắm vào ngực Arjuna.<br />
Ngay lập tức Krishna dậm chân cho chiến xa nghiêng sang một bên và để ngựa nằm xuống đất. Mũi phi-tiêu khủng-khiếp bay qua đầu Arjuna, mang theo ngọn lửa tiến về chòm sao bắc đẩu. Mũ trụ của Arjuna rớt xuống vỡ tan tành trên mặt đất. Mái tóc dài của Arjuna xoã xuống mặt và vai. Arjuna dương cung Gandiva, thì thầm: “Mong mũi tên này giết nó.” Arjuna bắn. Đầu mũi tên có hình trăng khuyết, sắc như dao cạo, mở ra như hai cánh tay. Mũi tên của Arjuna vừa bay ra thì Karna ngã xuống, đầu lìa khỏi cổ. Arjuna chiến-thắng, bước xuống xe lấy tấm vải trắng gói đầu Karna lại.<br />
Từ xa Duryoddhana khóc: “Ôi, Karna ...”<br />
Yudhishthira thúc chiến xa đến nhìn thây Karna. Ông bàng hoàng hỏi: “Ai đây?” Rồi ông quay qua Arjuna.<br />
“Ta không thể ngờ là một chiến-tướng uy-dũng nhất thế-gian đã chết. Suốt mười ba năm lưu-vong không lúc nào ta không nghĩ đến Karna.”<br />
Gió nhẹ nhàng đến hôn mặt đất và cỏ cây xanh tươi. Cái tĩnh-mịch của chiều hôm đã trở thành cái yên-lặng của đêm tối; và dưới vòm trời sao, xác của Karna đã trở nên cứng lạnh.*</blockquote>
<br />
Sau khi Karna tử-trận Salya lên làm tổng-tư lệnh quân-đội Kuru.<br />
<br />
<b>NGÀY THỨ MƯỜI TÁM</b><br />
Tình-hình chiến-sự rõ ràng nghiêng lợi về phía anh em Pàndu. Còn lại một mình, Duryodhana bỏ chốn dưới hồ kế cận, vì ông có tài ngâm mình dưới nước rất lâu. Trong khi ấy trên chiến-trường, Sahadeva giết chết Sakuni, và Yudhisthira giết chết Salya. Trước tình trạng này Asvatthàman trở thành tư-lệnh quân-đội Kuru. Bhìma giết hết anh em Kuru, ngoại trừ Duryodhana đang tại đào. Anh em Pàndu tìm ra chỗ trốn của Duryodhana và thách đối thủ lên bờ giao-chiến. Mới đầu Yudhisthira định đấu với Duryodhana, nhưng Krishna khuyên: “Yudhishthira, ông là một người ngu. Lại còn bất cẩn nữa hay sao. Chỉ vì cái lỗi của ông nên chúng tôi khổ đấy.” Thế là Bhìma vác chùy sắt đứng dậy. Và đây là lời tường thuật của Sanjaya cho vua mù Dhrtarastra nghe.<br />
<br />
<blockquote class="tr_bq">
*“Bhìma và Duryodhana hết đi vòng quanh, lại đứng yên, hết nhẩy tới lại nhẩy lui, lúc tấn vào lúc lùi ra, chập chờn uốn lượn. Duryodhana dùng chùy đánh Bhìma tới tấp đến nỗi không khí cháy khét lẹt. Áo giáp của Bhìma rơi xuống vỡ tan-tành như mây bị gió cuốn trong ánh nắng. Bhìma trợn tròn đôi mắt, lắc đầu, chống tay lên chùy sắt.<br />
Duryodhana bàng-hoàng nhìn vẻ kiên-nhẫn lạ lùng của Bhìma. Bhìma với tâm bình-thản nhấc chùy lên, và trận đánh lại bắt đầu. Con trai của bệ-hạ (Duryodhana) chầm chậm lượn vòng quanh tìm chỗ sơ-hở của đối-phương. Nhưng Bhìma rất thận trong. Cả hai vung chùy sắt nặng như thế mà cứ nhẹ như thanh gươm của hạ-thần.<br />
Thế rồi Bhìma làm cho con trai của bệ-hạ mất thăng bằng và lia chùy vào bên dưới. Duryodhana nhẩy lên tránh, thì Bhìma quất chùy lên đập trúng đùi Duryodhana. Duryodhana rơi chùy ngã xuống, nằm trên mặt đất như con rắn độc gẫy xương chờ chết. Một giây yên lặng thấm suốt rừng sâu .<br />
Anh em Pàndu hò reo. Trống chiêng vang lừng không gian. Khi con trai bệ-hạ ngã xuống, mọi người run rẩy, hồ nước xanh trông như máu đỏ, đàn ông đàn bà trông lẫn lộn giống nhau. Duryodhana nói với<br />
Balaràma, anh trai của Krishna:<br />
Duryodhana: “Ta đã ngã, lời ông không nâng ta dậy được. Nhưng sao lại đưa ta tới chốn này?”<br />
Balaràma: “Cánh-đồng Chính-pháp Kuru?”<br />
Duryodhana: “Phải!”<br />
Balaràma: “Hàng trăm năm về trước, tổ của ông, vua Kuru cầy ở cánh-đồng này, không có nước mà cũng không gieo hạt giống. Thần Indra thấy lạ hiện ra hỏi tại sao vua Kuru bước trên cát bụi thay vì an-dưỡng nơi nhà mát trong vườn vương-giả ở kinh-thành Hastinapura. Vua Kuru trả lời: “Kinh-đô không bằng đây.” Thần Indra nói: “Đây chỉ là một bát cát bụi.” Vua Kuru trả lời: “Không phải. Đây là bãi chiến-trường đưa con người thể-nhập với Trời.” Thần Indra nói: “Đây là hoang-dã. Thời giờ của đại-vương qúi hơn là làm chuyện này [...]. Với lại, sát-nhân không tốt, và chiến-tranh là tội-ác. Đâu là cánh-đồng dành cho những kẻ giết vua?” Vua Kuru trả lời: “Bạch Đức Thế-tôn, tôi sẽ đưa gia-đình vào ở trong rừng, nơi không hề có sách-sử.” Tối hôm ấy thần Indra lại hiện ra trước mặt Kuru. Nhà vua mời thần ngổi xuống cạnh mình. Thần Indra trả lời: “Không. Ta chỉ đến hát cho đại-vương nghe một bài ca. Hát xong, thần Indra cúi đầu chào rồi biến mất.”<br />
Bhìma: “Có phải là bài ca “Một bát Cát-bụi” không?”<br />
Balaràma: “Phải.” Nói xong ông phất tay gọi gọi xe, và tiếp lời: “Sao không chết ở một nơi khác!”<br />
Sau khi Balaràma đi rồi, Krishna nhìn Duryodhana.<br />
Krishna: “Ta tha lỗi cho ông.”<br />
Duryodhana: (Nổi-giận, chống hai tay xuống đất kiễng người lên) “Thằng nô-lệ. Mày là con thằng nô-lệ. Mày nhờ điếm đàng mới thắng!”<br />
Krishna: “Vì ông theo đuổi dục-thú, nên mọi người đã chết vì ông.”*</blockquote>
<i><br /></i>
Duryodhana sắp chết xin Asvatthàman tiêu diệt anh em Pàndu cho mình. Asvatthàman thề sẽ thực hiện í nguyện của Duryodhana. Ông bàn với Krpa và Krtavarrman là ban đêm lẻn sang trại đối-phương để ám-sát anh em Pàndu (phạm luật). Krpa và Krtavaman không tán-thành í-kiến ấy, nhưng chỉ đi theo và đứng chờ ngoài trại. Asvatthàman giết Dhrstadyumna, Sikhandin, Uttamàujas, Prativindhya, Sutasoma, Satànìka và Srutakìrti khi những người này đang ngủ. Kế đến, Asvatthàman giết luôn năm đứa con của bà Dràupadì, và dùng ma-thuật giết hài nhi chưa sinh là Pariksit còn trong bào thai của vợ Abhimanyu. Nhưng nhờ phép của Krishna, Pariksit sống trở lại. Asvatthàman mang đầu năm đứa nhỏ Pàndu về cho Duryodhana và bảo là đầu của năm anh em Pàndu. Duryodhana biết rõ không phải nên chửi Asvatthàman là đã giết hại trẻ con vô-tội. Chửi xong ông chết.<br />
<br />
Anh em Pàndu trở về trại thấy cảnh thảm-sát đó bèn đuổi theo Asvatthàman. Bhìma đánh ngã Asvatthàman. Asvatthàman vội tháo viên ngọc gắn trên trán ra dâng cho Bhìma để xin tha chết. Bhìma đem ngọc về tặng cho Dràupadì. Dràupadì đưa cho Yudhisthira để ông gắn vào vương-miện của mình. Chiến tranh kết-liễu. Phía Kuru chỉ còn ba người sống sót. Đó là Krpa, Asvatthàman và Krtavarman. Phía Pàndu mất năm người con. Xác của các chiến-sĩ hai bên được tẩm-niệm với nước hoa và chất lên thành một dàn cao hoả-táng. Vua Dhrtaràstra khóc than cho một trăm đứa con của mình tử trận. Yudhisthira bi thương không kém. Ông thốt lời than:<br />
<br />
<blockquote class="tr_bq">
*“Đối với ta vinh-quang này là một thất-bại lớn lao!<br />
Chúng ta chỉ có một kẻ thù mà thôi. Kẻ thù đó là sự ngu-si.”*<br />
Nhưng nhận-xét của Krishna cũng “bi-thương” không kém, khi ông trả lời Yudhisthira:<br />
“Ông là một người hiền và lại biết điều, nên con người không kính-trọng ông.<br />
Đừng băn-khoăn khi đã làm xong bổn-phận. Phúc-họa theo nhau.<br />
Có kẻ nghĩ họ giết người, có kẻ lại nghĩ họ không giết.<br />
Đó là miệng-lưỡi thế-gian.<br />
Còn chân-lí là gi?<br />
Chân-lí như cỏ rơm phủ lên miệng hố.<br />
Bổn-phận của ông cũng vậy, chỉ là cái mặt nạ lừa dối mà thôi”*</blockquote>
<br />
Ngay sau khi trận đánh cuối cùng kết-liễu, anh em Pàndu đến ra mắt thúc-phụ, tức vua mù Dhritarashtra, cha của một trăm anh em Kuru, tất cả đều tử-trận.<br />
<br />
<blockquote class="tr_bq">
*Yudhishthira: “Tâu Thánh-thượng, các vị hoàng-hậu, công-nương trước kia vẫn an-ủi nhau vì những mất mát nho nhỏ, nay chỉ biết cúi đầu nhìn chân của mình.”<br />
Dhritarashtra ôm Yudhishthira: “Bây giờ các cháu là con của ta. Đâu còn buồn nữa phải không? Các em của cháu có đến đây không?”<br />
Krishna: “Có!” Ông vội vàng giữ Bhìma lại và đặt trước mặt vị vua mù một pho tượng sắt Bhìma làm ra để cho Duryodgana tập chùy, rồi thưa: “Tâu Thánh-thượng, Bhìma đây!”<br />
Dhritarashtra ôm pho tượng sắt ngỡ là người thật. Bỗng nhiên lòng thù hận của ông cuồn cuộn nổi lên, ông nghiền pho-tượng sắt nát ra thành từng mảnh. Ngực ông trầy da chảy máu. Sanjaya vội bước tới cạnh công: “Đừng làm như thế!”<br />
Dhritarashtra khóc: “Ta đã giết nó rồi. Bây giờ ta phải làm gì hở Sanjaya?”<br />
Sanjaya lấy nước rửa mắt và máu trên ngực vua: “Xin Bệ-hạ an tâm. Krishna biết í của Bê-hạ cho nên đã đề pho tượng sắt trước mặt Bệ-hạ. Cám ơn Krishna. Bây giờ Bhìma đến với Chúa-thượng đi. Đừng sợ gì cả.” Vua Dhritarashtra ôm Bhìma, Arjuna và hai người em sinh đôi. Ông ban phép lành cho họ. Yudhishthira qùi trước hoàng-hậu Gandhari thưa: “Thưa hoàng-hậu, thần là Yudhishthira. Ai chỉ thấy người khác ngu-si mà không biết chính mình ngu-lậu; ai trách lỗi người khác mà không biết lỗi mình; trước khi chết yêu thương và thù hận cũng không còn, nên người ấy mới nghĩ đến tha-nhân. Thôi bây giờ mặc tình hoàng-hậu. Nếu hoàng-hậu muốn nguyền rủa thần xin hãy nói đi.”<br />
Nghe Yudhishthira nói thế, Dràpadì bảo Krishna: “Để ta gặp hoàng-hậu!” Nhưng Krishna giữ Dràupadì lại: “Đừng. Khoan đã!”<br />
Hoàng-hậu Gandhari quay ngoắt đi, nhưng qua lớp mạng che mặt của bà một tia nhìn phóng ra làm cháy đen đầu một ngón chân cái của Yudhishthiara. Bà nói: “Cút về với Kuntì ngay! Nhưng Dràupadì ở lại với ta một chút.” Cả hai bà hoàng-hậu ôm nhau khóc. Krishna đến ngồi cạnh Sanjaya và vua, với giọng êm đềm ông nói: “Một nghìn sáu trăm sáu mươi triệu và hai mươi nghìn người chết trong cuộc chiến này. Để tôi kể danh tính từng người ...[vì con số này nhiều hơn quân-đội hai bên, cho nên ta đoán là kể cả thường dân]<br />
Hiền-nhân sinh con trai cho đạo cả,<br />
Ngựa sinh con để con chạy nhanh,<br />
Công-nương sinh con trai để con trai bị giết sa-trường.<br />
Yuyutsu kéo xác Duryodhana lên dàn hỏa, và nói với thây ma như nói với người còn sống: “Ai sinh ra với nghiệp đao cung bây giờ nẳm yên trong lửa, cháy theo dục-vọng mà đi. Chinh-phụ đã từng bẽn-lẽn ôm chồng trong lúc riêng tư, bây giờ chắp đầu chồng vào thân-thể tay chân và nói: “Không phải!” hoặc là thì-thầm: “Bàn tay này vẫn thuờng cởi áo quần tôi, vẫn thường sờ vú sờ đùi tôi, vẫn thường bảo vệ bạn bè và tiêu diệt kẻ thù.” [...] Ông đã đoạt vương-quôc của Yudhishthira bằng trò sóc-đĩa, thì bây giờ Bhìma lấy mạng ông.” Yuyutsu châm hỏa đài. “Thôi, bây giờ hãy nằm tromg lửa dục-vọng của con tim! Ông đang ở trên trời. Ở trên đó ông đừng thù-hận với anh em ông nữa. Họ đều tin-tưởng ở ông.”</blockquote>
<br />
Theo tiếng Vyasa gọi hồn bước ra khỏi thiên-giới, từ sông Hằng có tiếng ngựa xe, vũ-khí và tiếng chiến-sĩ gọi nhau. Một đạo binh đông tới cả nghìn người đã bỏ mình trên chiến-địa Kurukeshetra, dẫn đầu bởi Drona, đang bước ra khỏi giòng sông phân chia đôi ngả cho hai cánh quân, không còn lòng hồ-nghi, không còn lời nguyền rủa, và cũng không có hận-thù. Họ mặc quần áo tiên. Trong họ không có lòng ganh-ghét lẫn từ-tâm. Họ đi vào giải sông Hằng trước khi hừng sáng.<br />
<br />
Đó là một đêm đẹp tuyệt vời. Không khí mát mẻ trong lành, bầu trời lâng lâng. Các dàn hỏa thiêu rực sáng, nhưng không có khói, hiện ra trong lớp sương mù mong manh trên sông. Dràupadì và Arjuna đơn độc trên chiến-trường suốt đêm. Họ ôm nhau trong yên lặng. Dràupadì ngắm bầu trời dựng sáng và những vì sao đang nhạt nhòa. Nàng cởi bỏ nữ-trang trên thân-thễ tay chân để khi bước đi không gây tiếng động. Dràupadì nói:<br />
<i><br /></i>
<i>“Arjuna – chúng mình còn sống!”*</i><br />
<i>Lửa hùng chở tới miền Cực-lạc</i><br />
<i>Đời tang-thương nay hết buồn đau</i><br />
<i>Cõi người trả lại về sau</i><br />
<i>Thành ra mây khói muôn mầu trần-gian.</i><br />
<i>Duy hiện-hữu vô-vàn ơn-phước,</i><br />
<i>Thọ vô-cùng sánh đức càn-khôn,</i><br />
<i>Ngửa trông lên cõi non-bồng,</i><br />
<i>Hình vua chúa áng mây hồng nổi-trôi.</i><br />
<i>Tay đập xuống cõi người lần nữa</i><br />
<i>Nằm yên nghe đất đá hồi âm</i><br />
<i>Tuy còn mang nặng tình-thâm</i><br />
<i>Linh-hồn vô-thể định-tâm trên trời.</i><br />
<i>Dù gai góc mặt đời chua chát,</i><br />
<i>Tình yêu-thương chan-chứa triền-miên</i><br />
<i>Tinh-thần sáng-tạo vạn-niên</i><br />
<i>Huy-hoàng để tiếng lưu-truyền thế-gian</i>. 1<br />
<br />
Sau đây là đoạn trích lúc Bhìsma lìa đời, tức là sau khi chiến-tranh kết-thúc.<br />
<br />
<blockquote class="tr_bq">
*Bhísma mở mắt, cụ thấy chung quanh mình là anh em Pàndu, Sanjaya, Dhritarashtra, Krishna, Vyasa, Satyaki, Yuyutsu, Prpa và Vidura. Họ bước chung quanh một vòng rối ngồi xuống.Yudhishthira để đầu vào chân tổ-phụ. Bhìsma cất tiếng.<br />
“Yudhishthira. Chào cháu. Hãy lại gần ta hơn nữa.”<br />
“Cháu sợ tổ nguyền rủa cháu!”<br />
“Bharata. Ta không nguyền rủa. Ta ban phước cho cháu. Ai không thấy chòm Bắc-đẩu, hoặc không thấy mình trong đôi mắt của người khác, thì chỉ sống được có một năm thôi. Ai sợ sêt thì chỉ sống được có sáu tháng thôi. Ai thấy mặt trăng có nhiều lỗ như mạng-nhện, hoặc ngửi thấy mùi tử khí trong đền đài, thì người đó chỉ sống được một tuần. Cháu hãy lại gần ta hơn nữa. Các cháu đều là Pàndavas (Pàndu) cả. Vũ-trụ còn sinh, thì các con còn sống trong cõi người. Ta ban phúc cho các cháu, đừng sợ gì cả.”<br />
Anh em Pàndu lại gần, Bhìsma ngửi đầu họ, như thủa họ còn bé thơ, rồi cụ nói: “Ta là mặt trời chiều, với tia sáng vút tỏa ra.” Lão-tướng nhắm mắt yên lặng và chung quanh mọi người ngồi yên như những hình-ảnh trong tranh.<br />
Sashadeva nhìn mặt trời và thấy nó bắt đầu nghiêng về phương bắc. Ông nói: “Ngày mặt trời xa nhất!”<br />
“Tổ-phụ ơi, cháu là Yudhishthira. Nếu tổ còn nghe cháu nói thì xin cho cháu biết cháu sẽ phải làm gì cho tổ?”<br />
Mắt vẫn nhắm, Bhìsma nói: “May qúa các cháu đều ở đây. Ta chào các cháu. Chào Krpa, Vidura, Dhritarashtra, Yuyutsu, Sanjaya, Satyaki, Vyasa ... Krishna, hãy lại đây.”<br />
Krishna sát lại. Bhìsma thì thầm:<br />
“Ta đã bảo họ, ở đâu có chân-lí thì ở đó có nhà ngươi, và ở đâu có vinh-quang thì ở đó có chân-lí. Chào con người đáng yêu Krishna.”<br />
“Chào Bhìsma!”<br />
Lúc này Bhìsma đã yếu lắm, đôi môi chỉ còn mấp máy. Krishna phải cúi xuống thêm để nghe những lời cuối cùng.<br />
“Ngươi là cái bao của vũ-trụ;<br />
Ngươi ôm vũ-trụ với tình yêu trong đôi tay ...”<br />
Qua vương-miện đội trên đầu Bhìsma năm nguồn sống vụt ra như sao băng trên trời. Các mũi tên và những vết-thương trên thân-thể cụ đều biến mất. Krishna nhẹ nhàng đặt cụ xuống đất, tức thì vết tích chiến-tranh trên cánh đồng thiêng không còn nữa, thay vào đó súc-vật thung dung qua lại, chim gây tổ hoà-bình, và trên cánh đồng gío thoảng đưa hương. [...]</blockquote>
<i><br /></i>
Tro của Bhìsma được đổ xuống sông Hằng. Khi tro rơi xuống, mặt nước sôi lên tung tóe, ghềnh bỗng nổi lên, sóng bổ vào nhau, ồn ào chấn động. Từ đó, buồn bã với thương đau, nữ-thần xinh đẹp sông Hằng hiện lên. Mỗi giọt nước mắt của nữ-thần rơi xuống sông là mỗi đoá hoa sen lờ lững trôi đi. Nàng qùi bên sông, úp mặt vào hai bàn tay, vai rung động.<br />
<br />
Arjuna vội đến bên ôm nàng an ủi: “Sao Nữ-thần lại khóc cho một người tuyệt vời như thế?”<br />
“Ta sẽ không bao giờ còn thấy con ta. Ai còn hơn con ta để cho con ta sống lại? Tro của con ta đang ở trong miệng ta đây.”<br />
“Xin Nữ-thần hãy mở mắt ra và bay về trời. Xin Người hãy nhớ đến chúng tôi, và cho phép chúng tôi lui bước.”<br />
<i><br /></i>
<i>Gió se-sắt thổi</i><br />
<i>Cỏ cao cúi đầu</i><br />
<i>Gió sắc như tên</i><br />
<i>Cỏ cao phải chịu</i><br />
<i>Cho gươm chặt đầu</i>.<br />
<br />
Với những lời thơ trên chấm dứt Anh-hùng Ca Màhàbharata.<br />
Cả chục năm trước, đôi khi tôi quên rằng tôi không fải là một nhà thơ, cho nên có lần tôi đã thử lấy í-chính trong Chí-tôn Ca và tài-liệu trong Anh-hùng Ca Màhàbharata, để thi-hóa Chí-tôn Ca. Zĩ nhiên không thành vì chuyện này không zễ ngay cả đối với một nhà thơ lỗi-lạc. Tôi chép lại đây bốn câu mở-đầu và tám câu kết-luận, như sau:<br />
<br />
<br />
<br />
Vua DRITARASHTRA:<br />
<i>Trẫm mù-loà , jà nua, thô lậu</i><br />
<i>Trong điện-vàng ngày tháng triền-miên.</i><br />
<i>Trẫm nge trên Cánh-đồng Thiêng,</i><br />
<i>Chiến-tranh mang cả thần-tiên xuống trần.</i><br />
[…..]<br />
Thi-jả SANJAYA:<br />
<i>Nhờ ơn-sủng Vi-sa tế-độ,</i><br />
<i>Nên hạ-thần thấy rõ chân-như</i><br />
<i>Những lời bàn ở Thánh-thư</i><br />
<i>Nhiều khi ngĩ lại tâm-tư bồi-hồi!</i><br />
<i>Ôi sung-sướng ơn Trời bất-hủ</i><br />
<i>Ước mong rằng cung-thù Bi-tha</i><br />
<i>Ở đâu có áng can-qua,</i><br />
<i>Thì thanh-bình đến nở hoa lòng người</i>.<br />
<br />
<br />Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-30920363446133843262012-09-05T02:07:00.001-07:002012-09-05T02:12:01.831-07:00Tông Đản không phải là Nùng Tôn Đán?<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEihM4dfZ9p-wLzVkDZmmG2NjzztoooE1LDg9NPokQTmhMwOV3g4zrP4ySdagiLrOyhbf88lTC_gKA9ZOZSD0ByQPmlG1DaNcMRchbexe-wBFpbAguDT8bhc8CkYIvZDAscaMxw8xX-THWM/s1600/Dia+Viet+danh+Tong.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="434" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEihM4dfZ9p-wLzVkDZmmG2NjzztoooE1LDg9NPokQTmhMwOV3g4zrP4ySdagiLrOyhbf88lTC_gKA9ZOZSD0ByQPmlG1DaNcMRchbexe-wBFpbAguDT8bhc8CkYIvZDAscaMxw8xX-THWM/s640/Dia+Viet+danh+Tong.jpg" width="640" /></a></div>
<br />
<i>(hình ảnh mượn trong bài Những biến cố lịch sử liên quan đến Việt Nam của tác giả Trần Việt Bắc)</i><br />
<br />
Thông tin gần như chính thống của sử việt cho rằng đại tướng Tông Đản đánh Tống thời Lý là người Nùng.<br />
<br />
Tuy nhiên một sự thật là nhân vật Tông Đản người Nùng này lại nhiều lần theo Tống phản lý.<br />
<br />
Hoàng Xuân Hãn trong sách Lý Thường Kiệt viết:<br />
<blockquote class="tr_bq">
Sử sách Tống viết Nùng Tông Đán là người Nùng khá hiệt liệt, đã từng vào cướp đất Tống, sau theo Tống làm đến trung vũ tướng quân ở Ung Châu. Y từng bỏ Tống rồi theo Tống nhiều lần. Sử ta thì có nhắc đến Tông Đản lãnh đạo quân khê động theo Lý Thường Kiệt đánh sang Tống (hiện nay còn có phố Tông Đản ở Hà Nội), nhưng rất sơ sài. Hai âm Đản và Đán lại gần như nhau, không biết hai người có phải là một không?<br />
Sách Tống còn nói các con của Tông Đán đều theo Lưu Kỷ, phải chăng Tôn Đản là một trong những người con của Tông Đán?<br />
Thêm nữa, sử Việt như Toàn thư đều viết lãnh đạo quân khê động có Tông Đản, Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn, Thân Cảnh Phúc (phò mã)... tức là đều đưa Tông Đản lên đầu. Nhưng Tông Đản cuối cùng là ai? sử đều không nói rõ. Theo thiển ý của người chép thì người lãnh đạo quân khê động chính là Lưu Kỷ, nhưng sau này bọn Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn lại bỏ Lý theo Tống, nên sử gia Việt đời sau đưa Tông Đản lên cho đẹp đoạn sử này chăng?</blockquote>
<br />
Sách The Rebel Den of Nùng Trí Cao, tác giả James Anderson, năm 2007. Trang 121-122:<br />
<blockquote class="tr_bq">
Nùng Tông Đản là người trong họ tộc với Nùng Trí Cao, sau khởi nghĩa của Trí Cao thất bại 1052-1054, Tông Đản thống lãnh lực lượng còn sót lại của họ Nùng. Tông Đản và bộ thuộc cùng họ tộc của Trí Cao qui hàng Tống Triều, đem các động dưới quyền Lôi Hỏa, Kế Thành qui thuận nhà Tống. Các đất này bị nhập vào châu Shun'an (Thuận An?) của Tống. Tuy vậy Tông Đản trên tiếp tục quản lý các đất này, và như vậy theo tác giả dẫn lời Hoàng Xuân Hãn, nhà Lý trên thực tế tiếp tục giữ chủ quyền tại đây. Năm 1062, Nùng Tông Đản xin đem đất các động dưới quyền mình nội thuộc Tống, vua Tống chấp nhận.<br />
Năm 1065, Tông Đản cùng Lưu Kỷ, thủ lĩnh châu Quảng Nguyên lại trở cờ theo Lý. Như vậy tới năm 1069 trong hàng ngũ các bộ tộc Nùng có sự chia rẽ, một bộ phận ủng hộ Tống gồm Lư Báo-tướng cũ của Trí Cao, và Nùng Trí Hội, em Trí Cao, bộ phận kia gồm Tông Đản và Lưu Kỷ theo Lý.</blockquote>
Tuy nhiên xét chữ Đản và Đán trong Tống sử thì có thể có 2 nhân vật: Đại Tướng Tông Đản nhà lý vai vế ngang với Lý Thường Kiệt là người dẫn cánh quân thứ 2 đánh Tống và tù trưởng người Nùng là Tôn Đán nhiều lần phản Lý đầu Tống<br />
<blockquote class="tr_bq">
Tống sử quyển 487: "Ngoại quốc truyện, Giao-chỉ, Đại Lý" viết tên của Tôn Đản là: " 宗亶". Tôn Đản là đại tướng của Đại Việt mang quân đánh Tống.<br />
Tống sử, quyển 495 "Man-di truyện, Quảng-nguyên châu ..." viết tên của (Nùng)Tôn Đán là: "宗旦", động chủ (quan thổ ty) của Lôi Hoả động đã theo Tống. Nguyên văn: "侬氏又有宗旦者,知雷火洞,...", phiên âm Hán Việt: " Nông thị hựu hữu Tôn Đán giả , tri Lôi Hỏa động".</blockquote>
Ngoài ra nếu Nùng tôn Đán chỉ là tù trưởng bộ lạc đã từng phản Lý đầu Tống thì không có chuyện : "Vua phong cho Tông Đản chức Lang Trung tướng quân, triệu về kinh thành Thăng Long làm Đô quân thống lĩnh ngự tiền sử- ĐVSKTT "<br />
<br />
Một chức quan to trong triều như vậy "ngự tiền sử" không thể do một tù trưởng ngoài biên ải kiêm nhiệm. Cũng như vai trò của cánh quân thứ 2 do đại tướng Tông Đản phạt tống là hết sức to lớn (quân chủ lực đi vây Ung Châu) quân của Tông Đản là lực lượng bộ binh chủ lực, quân của Thường Kiệt là Thủy quân . Xét như thế thì nên xem xét lại nguồn gốc của đại tướng Tông Đản thời lý liệu có phải là tù trưởng Nùng Tôn Đán hay không ?!?Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-30842536789168995512012-09-04T20:41:00.000-07:002012-09-04T20:41:09.592-07:00Bài ca chuột chù<span style="color: #3f2800; font-family: verdana, geneva, lucida, lucida grande, arial, helvetica, sans-serif;"><span style="font-size: 14px;">Đây kể chuyện nhà Chu kể từ khi Cơ Phát khởi nghiệp phạt Trụ dựng nên nghiệp Thiên tử truyền xuống đến Chu Lệ Vương tổng cộng là 10 đời. Triều đình nhà Chu lúc này bạo nghịch lại ham hưởng lạc nên quý tộc mặc sức bóc lột nhân dân. Cả nước nhân dân ca thán không ngớt. bọn trí sĩ lại đặt ra bài ca "<i>Chuột chù tham ăn</i>" để lên án bọn quý tộc tham lam. Lệ Vương lấy đó làm lo. Một học sinh có tên Dương Văn Cù đoán được ý thiên tử bèn viết tấu chương dân lên, trong đó đại khái khuyên triều đình nên ngăn cản dân chúng hội họp, nghiêm cấm việc bàn tán việc quốc gia. Lệ Vương xem xong thấy đẹp lòng mới bàn với đại thần là Thiệu Công Bá, Thiệu Công cho rằng không nên. Lệ Vương không nghe, lại giao cho kẻ tâm phúc đi dò la trong nhân dân xem có ai tụ họp thì tố cáo để trừng trị. Quả nhiên nhân dân khiếp sợ ra đường chỉ dám nhìn nhau không dám chào hỏi. Lệ Vương lấy làm đắc ý mới hỏi ý Thiệu CÔng thấy thế nào, Thiệu Công than rằng " <i>Than ôi, bịt miệng dân như bịt dòng nước lớn, là việc không nên làm, nếu để lâu ngày sẽ gây họa lớn</i>". Quả nhiên về sau dân trong kinh thành khởi loạn, Lệ Vương phải chạy ra trốn ở đất Di, Vương Triều nhà Chu lao đao, suốt 14 năm không có vua, chính sự mục rỗng không còn khôi phục được nữa.</span></span>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-39770175928448935202012-08-31T02:18:00.002-07:002012-08-31T02:19:57.460-07:00Ai đang thống trị nước Mỹ<i style="line-height: 16px;"><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Trả lời câu hỏi Ai cai trị nước Mỹ? có lẽ nhiều người sẽ nói: chính phủ và Tổng thống Mỹ đang cai trị nước này.</span></i><br />
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"><i>Câu trả lời ấy không sai nhưng chưa đi vào bản chất vấn đề. Nếu tiếp tục tìm hiểu ta sẽ thấy Ai cai trị nước Mỹ là một vấn đề phức tạp, cho tới nay vẫn chưa có câu trả lời tương đối nhất trí mà tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.</i></span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"><br /></span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: large; line-height: 16px;">Một số quan điểm thông thường</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"><br /></span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"><b>1. Quan điểm cho rằng mỗi quốc gia đều do một giai cấp nào đó thống trị, thí dụ các nước theo chủ nghĩa tư bản (CNTB) như Mỹ là do giai cấp tư sản thống trị, các nước XHCN do giai cấp công nhân thống trị.</b></span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Ở đây có hai vấn đề. Thứ nhất, khái niệm giai cấp thống trị (ruling class) quá rộng trong khi bộ phận quyết định đường lối chính sách quốc gia chỉ có thể là số ít. Trong một xã hội hiện đại, các quyết sách lớn đều rất phức tạp và cần giữ bí mật ; vì thế nhà nước không thể do số đông lãnh đạo. Chẳng hạn nói giai cấp công nhân lãnh đạo, thực ra là đảng của giai cấp đó, đúng hơn là Ban chấp hành trung ương, chính xác là một thiểu số (như Bộ Chính trị) lãnh đạo.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Thứ hai, trong xã hội hiện đại các giai cấp đều bị phân hóa rất rõ ràng. Tại các nước tư bản, tăng trưởng kinh tế dẫn tới xã hội CNTB phúc lợi, giai cấp công nhân không còn là giai cấp vô sản như thời của Mác nữa, mà một bộ phận đáng kể đã chuyển lên thành tầng lớp trung lưu, hữu sản. Giai cấp tư sản cũng chia làm tư sản công nghiệp và tư sản tài chính, có vai trò khác nhau và mâu thuẫn với nhau. Tầng lớp trung lưu có số người đông nhất; qua bầu cử dân chủ và qua các tổ chức xã hội công dân, họ có tiếng nói quyết định trong xã hội. Người Mỹ cho rằng ở nước họ tất cả mọi người đều là công dân, hoàn toàn bình đẳng về cơ hội nhưng có thể không bình đẳng về kết quả ; ai cũng có thể giàu hoặc nghèo tùy thuộc sự phấn đấu của mình. Căn cứ theo thu nhập, xã hội Mỹ chia làm hai tầng lớp giàu và nghèo, đều là thiểu số, và một tầng lớp trung lưu chiếm đa số (80% dân). Không có khái niệm giai cấp vô sản, vì thế ở Mỹ chưa hề có phong trào cách mạng XHCN. Hai đảng Cộng hòa và Dân chủ không đại diện giai cấp, chỉ là các nhóm lợi ích, lập ra để tranh nhau chức Tổng thống (TT). Hai đảng này tổ chức rất lỏng lẻo.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"><b>2. Quan điểm cho rằng chính quyền Mỹ là do tầng lớp nhà giàu nắm giữ.</b></span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Nước Mỹ có mức độ phân hóa giàu nghèo rất rõ rệt. Số liệu năm 2007 cho thấy 1% số gia đình (thuộc tầng lớp trên, upper class) sở hữu 34,6% tài sản tư nhân cả nước; 19% tiếp theo (gồm giới các nhà quản lý, chuyên gia, chủ doanh nghiệp nhỏ) nắm 50,5%. Nghĩa là 20% số dân sở hữu 85% tổng tài sản tư ; còn 80% số dân (là những người làm thuê) chỉ sở hữu có 15%. Hiện nay 46% nghị sĩ hai viện quốc hội Mỹ thuộc diện nhà giàu (hiểu là có tài sản trên 1 triệu USD; người giàu nhất là Darrel Issa, đảng Cộng hòa, có 451 triệu USD); nhưng chưa phải là giàu lắm. Nói tầng lớp giàu có nắm chính quyền cũng không chính xác, vì 1% số dân Mỹ là 3,5 triệu người, bằng một quốc gia nhỏ. Hơn nữa không ít tỷ phú Mỹ lại tránh xa quyền lực, như Bill Gates và Warren Buffett đều không tham gia chính đảng nào, họ cam kết góp gần hết tài sản cho công tác từ thiện và ủng hộ Tổng thống Obama tăng thuế đánh vào người giàu.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"><b>3. Quan điểm cho rằng bên cạnh chính phủ Mỹ còn có một chính phủ vô hình do các nhà tư bản tài chính đứng đầu thực sự nắm quyền lãnh đạo nhà nước</b>.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Quan điểm này thấy rõ trong cuốn Chiến tranh tiền tệ [1]. Sách trích dẫn nhiều tài liệu của phương Tây, đưa ra những tư liệu giật gân, không rõ độ tin cậy, như : </span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"> Từ thế kỷ XIX, nền tài chính toàn thế giới thuộc quyền kiểm soát của gia tộc Rothschild (người Do Thái) có tổng tài sản tích lũy hơn 50 nghìn tỷ USD ( ?), gấp 4 lần GDP nước Mỹ. Rothschild Family hiện có tài sản 500 tỷ USD, đứng đầu tập đoàn tài chính quốc tế và kiểm soát tất cả các chính quyền phương Tây thông qua hệ thống ngân hàng (?); </span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"> Cơ quan Dự trữ Liên bang FED, tức Ngân hàng Trung ương Mỹ, là một ngân hàng tư nhân! Chủ tịch FED đều là người Do Thái (gần đây là Greenspan, nay là Bernanke). FED chính là Tổng thống không nhìn thấy đang thống trị nước Mỹ, vì FED có quyền in và phát hành đồng dollar Mỹ, còn gọi đồng tiền của FED (Federal Reserve Note) ; </span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"> Chính phủ Mỹ không có cổ phần ở FED. Họ phải vay tiền của FED để chi tiêu với thế chấp là tiền thuế thu nhập (khoản thu tài chính lớn nhất trong nước) do dân Mỹ nộp vào tài khoản của FED. Hiện nay nước Mỹ nợ nước ngoài 2500 tỷ USD (chủ yếu là công trái Mỹ do Trung Quốc, Nhật nắm) nhưng lại nợ FED những 44 nghìn tỷ USD ; </span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"> Nhiều TT Mỹ từng kiên quyết chống lại việc các nhà băng châu Âu muốn lập ngân hàng trung ương Mỹ do tư nhân kiểm soát để nắm quyền phát hành tiền tệ. TT Jackson từng giải tán ngân hàng tư nhân, trên bia mộ của ông khắc mỗi một câu: Tôi đã giết ngân hàng. TT Lincoln từng phát hành đồng tiền riêng của chính phủ, gọi là Tiền Xanh (greenback) nhằm phá thế kìm kẹp của đồng tiền do ngân hàng tư nhân phát hành, vì thế ông bị ám sát chết. Nhưng rốt cuộc FED vẫn được lập vào năm 1913, cho dù nhiều TT Mỹ chống lại việc đó ; </span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"> Có một Câu lạc bộ tinh hoa thống trị thế giới với nòng cốt là Hội đồng Quan hệ quốc tế Mỹ, nhóm Bilderberg và Ủy ban Ba bên (Trilaterial Commission). Ở đây tinh hoa là các trùm tài chính quốc tế, họ muốn lập chính phủ thế giới và tiền tệ thế giới (?).</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Hiện nay dân Mỹ đang lên án các nhà tư bản tài chính là kẻ gây ra khủng hoảng kinh tế. Có điều khó hiểu là G. Soros một trùm tài chính người Mỹ gốc Do Thái lại ủng hộ phong trào này và phản đối việc chính phủ giải cứu các ngân hàng. Soros cũng cam kết hiến tất cả tài sản của mình cho công tác từ thiện.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"><b>Thuyết Tinh hoa quyền lực</b></span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Trong quá trình nghiên cứu vấn đề cấu trúc quyền lực ở Mỹ, xoay quanh chủ đề nước này sau Thế chiến II có tồn tại quyền lực tập trung hay không, một số học giả tiến bộ Mỹ cho rằng nước Mỹ là do một thiểu số tinh hoa quyền lực gồm những trùm sò của 3 ngành kinh tế, quân sự, chính trị thống trị.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Chế độ phân quyền hai cấp liên bang và bang, nguyên tắc tam quyền phân lập, tập tục hai đảng thay nhau cầm quyền và cơ chế bầu cử dân chủ tạo cảm giác xã hội Mỹ là do dân làm chủ và không có vấn đề quyền lực tập trung ; chính phủ Mỹ là « của dân, do dân, vì dân ». Tỷ phú-nhà từ thiện David Rockefeller từng nói : Tôi tin rằng chính phủ Mỹ là đày tớ của nhân dân chứ không phải ông chủ của họ [2].</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Sau thắng lợi tiêu diệt các thế lực độc tài phát xít trong Thế chiến II, nước Mỹ ở vào thời kỳ phồn vinh, phần lớn trí thức Mỹ tự hào cho rằng nước họ là đại diện của quốc gia tự do dân chủ; bất kỳ nhóm lợi ích nào cũng bị các nhóm khác cân bằng và kiềm chế; người dân qua lá phiếu bầu của mình thực hiện quyền làm chủ nhà nước, không tồn tại vấn đề quyền lực quá tập trung.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Quan điểm trên bị lung lay khi xuất hiện cuốn Cấu trúc quyền lực cộng đồng : Một nghiên cứu về các nhà quyết sách (Community Power Structure: A Study of Decision Makers, 1953) của Floyd Hunter và Tinh hoa quyền lực (The Power Elite, 1956) của C. Wright Mills. Hai tác giả giải thích cấu trúc quyền lực theo cách khác với phái chủ nghĩa đa nguyên (pluralism) và phái Mác xít. Đây là bước thăm dò của giới khoa học chính trị về cấu trúc và sự phân phối quyền lực ở Mỹ trên tầng nấc quốc gia, hình thành lĩnh vực nghiên cứu cấu trúc quyền lực trong ngành khoa học xã hội và chính trị.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Mills cho rằng cấu trúc quyền lực ở Mỹ đã có thay đổi bản chất: quyền lực nhà nước quan trọng nhất đã tập trung vào 3 lĩnh vực kinh tế, chính trị và quân sự; 3 lĩnh vực đó hòa quyện với nhau, những người nắm 3 loại quyền lực này là các trùm tập đoàn công ty, chính khách trùm sò và lãnh tụ quân sự. Họ cấu tạo nên tinh hoa quyền lực của nước Mỹ, có lợi ích nhất trí, gắn kết nhau cùng hoạch định các quyết sách trên phạm vi toàn quốc, là một « tập đoàn nhỏ » khống chế quyền lực tập trung.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Mills vạch trần sự thật: phía sau sự phồn vinh, chế độ dân chủ mà người Mỹ tự hào đang bị đe dọa nghiêm trọng ; trong thời gian chiến tranh lạnh, quyền lực của đông đảo nhân dân Mỹ đang bị mất dần. Các giám đốc điều hành (CEO) đại công ty đến nhậm chức trong chính phủ Mỹ (như sau này McNamara Chủ tịch công ty Ford Motor làm Bộ trưởng Quốc phòng), tướng lĩnh cấp cao trong quân đội chuyển sang lãnh đạo đại công ty; quyền lực đang tập trung vào tay các nhà lãnh đạo quân đội, công ty và chính khách, tức nhóm tinh hoa thống trị quốc gia. Hơn thế nữa, địa vị của giới lãnh đạo quân đội và đại công ty đang lên cao, địa vị của các nhà chính trị thì đang hạ thấp. Mills và Hunter cho rằng quyền lực thoạt tiên bén rễ trong các tổ chức chứ không phải trong các cá nhân, các hội đoàn, nhóm lợi ích và đảng phái như nhiều nhà chính trị dòng chính quan niệm, cũng không phải là các giai cấp như các nhà Mác xít nghĩ.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Mills đồng ý với 3 tiêu chuẩn phân chia các tầng lớp xã hội do Max Weber đề xuất: tiền vốn (tư bản), quyền lực và danh vọng (3 thứ này có thể chuyển hóa lẫn nhau). Ông vạch ra sai lầm của Thuyết cân bằng phổ biến trong nhận thức của người Mỹ. Cơ chế tam quyền phân lập nhằm ngăn chặn sự tập trung quyền lực, nhưng trong thực tế cơ chế đó bị thách thức. Dân chúng chỉ chú ý tới tầng lớp trung lưu mà mơ hồ về cấu trúc quyền lực tổng thể, nhất là tầng lớp trên và tầng lớp dưới. Tầng lớp trên ngày càng nhất thể hóa và đã xuất hiện tinh hoa quyền lực. Ông cho rằng CNTB Mỹ là CNTB quân sự ; mối quan hệ quan trọng nhất giữa đại công ty với nhà nước thì xây dựng trên sự nhất trí về nhu cầu của quân đội và công ty. Sự nhất trí đó tăng cường sức mạnh của mỗi bên và làm suy yếu vai trò của các chính khách.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Giới truyền thông đại chúng Mỹ giúp các nhân vật tinh hoa quyền lực có được vinh quang mà tầng lớp trên ở bất cứ nước nào cũng chưa từng được hưởng. Truyền thông đại chúng và cơ chế giáo dục ở Mỹ đã che giấu sự vô đạo đức của tầng lớp trên và việc tầng lớp này tước đoạt quyền lợi của dân chúng.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Wright Mills là nhà phê phán xã hội có ảnh hưởng nhất ở Mỹ thập niên 1950. Thuyết Nước Mỹ tồn tại tinh hoa quyền lực cấu tạo bởi nhóm 3 đại gia (The Big Three, gồm các trùm chính quyền, quân đội, công ty độc quyền) của ông được gọi là chủ nghĩa Mills (Millsian). Nó cùng với chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa đa nguyên tạo ra cục diện bộ ba ở Mỹ. Quan điểm tiến bộ của Mills khiến ông bị một số học giả cho là thân Fidel Castro (ông có sang thăm Cuba mấy lần), thân cộng sản ; ông từng có ý định bỏ nước Mỹ sang sống ở Anh. Trong hơn 50 năm qua sách Tinh hoa quyền lực được tái bản nhiều lần. Tuy tình hình xã hội Mỹ ngày nay khác ngày ấy, nhưng quan điểm của Mills hiện vẫn có giá trị trong việc giải thích cấu trúc quyền lực ở Mỹ.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Những người theo thuyết cân bằng và theo chủ nghĩa đa nguyên công kích thuyết tinh hoa quyền lực; họ cho rằng trải qua cuộc cách mạng quản lý, CNTB gia tộc đã suy yếu, xã hội phương Tây không còn tồn tại tinh hoa đơn nhất và tập trung (tức tinh hoa quyền lực) nữa, mà chỉ còn một quần thể tinh hoa đã phân tán về quyền lực và cạnh tranh lẫn nhau.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Phái Mác xít giải thích cấu trúc quyền lực từ điểm xuất phát là sự đối kháng giai cấp và nhấn mạnh đấu tranh giai cấp xảy ra ở mọi nơi mọi lúc; họ cho rằng việc Mills bỏ khái niệm giai cấp thống trị, đưa ra khái niệm tinh hoa quyền lực, nhấn mạnh mối quan hệ giữa tinh hoa quyền lực với thể chế là cách làm không triệt để, dễ đi tới coi nhẹ tác dụng chủ đạo quá trình quyết sách của của giới tinh hoa thương mại, hạ thấp kinh tế xuống ngang hàng với chính trị và quân sự.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Quan điểm Tinh hoa quyền lực của W. Mills có ảnh hưởng rất lớn tới phong trào phản chiến và phong trào sinh viên ở Mỹ hồi thập niên 60. Đáng tiếc ông mất sớm (1916-1962) nên không thể tiếp tục cống hiến trên lĩnh vực này.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Phái theo chủ nghĩa phê phán (criticism) ca ngợi cách đặt vấn đề có tính phê phán của Mills ; tuy không hoàn toàn đồng ý với ông nhưng họ viết khá nhiều sách phát triển học thuyết của ông.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Trong số các tác phẩm ấy, đáng kể nhất là cuốn Ai thống trị nước Mỹ? (Who Rules America?) của G.W.Domhoff xuất bản năm 1967, được xếp thứ 12 trong số 50 bestseller về xã hội học thời gian 1950-1995. Sách này sau đó lại bổ sung và tái bản, đến năm 2010 đã xuất bản lần thứ 6, có những thông tin về Barack Obama.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Tiếp đó là cuốn Ai đang thống trị nước Mỹ? (Who’s Running America?) của Thomas R. Dye, xuất bản năm 1976, mỗi đợt bầu Tổng thống mới lại tái bản có bổ sung, đến nay đã có bản thứ 7 (The Bush Restoration). Bản nào cũng có một chủ đề: nước Mỹ vẫn bị thống trị bởi các nhóm tinh hoa quyền lực chiếm địa vị cao trong các thiết chế quan trọng.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Nhiều năm qua, giới trí thức Mỹ không ngừng tranh luận vấn đề Ai thống trị nước Mỹ. Trên mạng có riêng một website Who Rules America.net dành cho việc này. Hai phái chủ nghĩa đa nguyên và chủ nghĩa tinh hoa (Elitism) hăng hái tranh cãi với nhau.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Dư luận dường như nhất trí ở một điểm: nước Mỹ không do số đông (masses) lãnh đạo. Vấn đề là nước này có tồn tại tinh hoa quyền lực hay không ?</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Cuốn Ai thống trị nước Mỹ: Sự biến đổi quyền lực, chính trị và xã hội (Who Rules America? Power, Politics and Social Change) của G.W.Domhoff bản in năm 2006 được coi là tác phẩm kinh điển nghiên cứu về tinh hoa quyền lực nước Mỹ. Domhoff khẳng định nước Mỹ bị thống trị bởi tầng lớp tinh hoa đang sở hữu và điều hành những tài sản có thu nhập lớn như ngân hàng và tập đoàn công ty, họ làm chủ cấu trúc quyền lực chính trị và kinh tế của nước Mỹ. Họ là chủ sở hữu hoặc CEO các công ty làm ra khối lượng của cải khổng lồ, là những cố vấn pháp lý của công ty… gọi chung là cộng đồng doanh nhân.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Khái niệm tinh hoa quyền lực do Mills đề ra đã làm rung chuyển giới trí thức Mỹ và gây ra cuộc tranh luận suốt hơn nửa thế kỷ qua. Cuộc tranh cãi đó động chạm tới nhận thức về các khái niệm tinh hoa, dân chủ, quyền lực, nhận định về cấu trúc quyền lực và xu thế phát triển của nó trong xã hội Mỹ, và dẫn tới các vấn đề thuộc khái niệm rộng hơn – lĩnh vực xã hội học tinh hoa (Sociology of Elites). Các nhà chính trị học nhiều nước, kể cả Trung Quốc, đang vận dụng quan điểm của Mills để xem xét vấn đề tinh hoa quyền lực tại nước mình.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"><b>Vai trò của các TT Mỹ</b></span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Dĩ nhiên TT Mỹ thuộc vào tầng lớp tinh hoa quyền lực, tuy rằng không ít TT xuất thân nghèo hoặc bình thường. Vì do dân trực tiếp bầu ra, nói chung các TT đều đại diện cho lợi ích của đa số nhân dân. Nhưng do chịu rất nhiều sức ép từ các lực lượng trong xã hội cho nên họ phải thỏa hiệp, không phải bao giờ cũng hoàn toàn vì lợi ích của đa số dân.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Có một sự thật không thể phủ nhận là nước Mỹ tồn tại một số nhóm lợi ích cực đoan có những hoạt động vi phạm truyền thống dân chủ của nước này và gây khó khăn cho các TT.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Đáng kể nhất là Tổ hợp công nghiệp-quân sự (Military-industrial complex). Trong diễn văn từ nhiệm đọc ngày 17/1/ 1961, TT Eisenhower từng cảnh báo nhân dân Mỹ: Trong khi thừa nhận ngành công nghiệp và quân sự có cống hiến cho việc đảm bảo an ninh của nước Mỹ, chúng ta không thể không thấy là sự cộng tác giữa chính phủ liên bang với giới quân sự và giới lãnh đạo ngành công nghiệp tuy cần thiết nhưng lại có thể dẫn đến tệ nạn lạm dụng quyền lực. Ông khuyến cáo nhân dân Mỹ cần chú ý giám sát tổ hợp công nghiệp-quân sự [3].</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Oliver Stone đạo diễn bộ phim JFK (phim về vụ ám sát TT J.Kennedy) từng nói Kennedy bị ám sát vì ông muốn chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam nhưng tập đoàn công nghiệp-quân sự không đồng ý. Phát biểu của Stone làm rung chuyển dư luận, vì các báo cáo điều tra vụ ám sát Kennedy đều không nói gì tới vấn đề này. Năm 1968 Thượng nghị sĩ Robert Kennedy bị ám sát chết trong khi tranh cử TT cũng chỉ vì muốn kế tục nguyện vọng kết thúc chiến tranh Việt Nam. Về sau con trai duy nhất của J. Kennedy ở tuổi 40 cũng chết trong một tai nạn máy bay riêng bí ẩn, đúng như lời bà góa Jacqueline nói: Bọn chúng muốn tiêu diệt gia tộc Kennedy.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Thứ hai là Tập đoàn chính trị Do Thái. Cộng đồng người Mỹ gốc Do Thái có gần 7 triệu người, chỉ chiếm 2,5% số dân nhưng có ảnh hưởng lớn tới chính trường Mỹ; chủ yếu vì họ hăng hái nhất trong việc tham gia bầu cử, hơn nữa họ giàu có và khống chế bộ máy truyền thông nước này [4]. Tuy chưa có chính trị gia gốc Do Thái nào làm TT Mỹ nhưng họ thường sử dụng chiêu vận động hành lang nghị trường để gây ảnh hưởng tới chính sách đối ngoại, khiến chính phủ Mỹ tỏ ra thiếu công bằng trên vấn đề Trung Đông. Chẳng hạn Mỹ đã viện trợ không hoàn lại cho quốc gia Do Thái Israel tổng sộng khoảng 1700 tỷ USD nhằm giúp nước này có sức mạnh kinh tế và quân sự đủ để trụ được trong vòng vây của thế giới A Rập. Thái độ thiên vị ấy đã làm người A Rập căm phẫn, hậu quả khiến nước Mỹ phải trả giá cho cuộc chiến dai dẳng chống khủng bố.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Tất cả các đời TT Mỹ đều phải đương đầu với những nhóm lợi ích nói trên. Nhiều người đã dũng cảm đấu tranh chống lại. Sáu trong số 44 TT Mỹ từng bị ám sát, trong đó 4 người chết [5], có lẽ vì họ đi ngược lại ý đồ của các nhóm ấy.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Một lực lượng nữa thường xuyên gây sức ép với chính quyền Mỹ là quần chúng nhân dân. Ngoài việc thông qua các đại diện của mình trong quốc hội để tác động lên chính phủ, phần lớn dân Mỹ, nhất là tầng lớp trung lưu, đều ở trong các tổ chức của công dân, như các tổ chức phi lợi nhuận (Non-profit Organization, NPO, thí dụ công đoàn, các hội ngành nghề, quỹ từ thiện, đoàn luật sư, think-tank v.v..). Các tổ chức này là nơi liên kết dân chúng để thống nhất quan điểm, bảo vệ lợi ích tập thể của họ, thực hiện xã hội hòa hợp và giám sát chính quyền. Các tổ chức đó hình thành xã hội công dân (XHCD), một lĩnh vực tồn tại độc lập với nhà nước, thực sự là đối trọng đáng vì nể của chính phủ.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Lực lượng XHCD Mỹ rất hùng hậu. Năm 2010 nước Mỹ có hơn 1,5 triệu NPO có tính quốc tế (U.S.-based International Nonprofit Organization), giả thử Ban quản trị mỗi NPO có 10 người, thì ít nhất có 15 triệu dân quản lý NPO, nếu kể cả thành viên chính thức và không chính thức thì số người tham gia NPO có cả cả trăm triệu. Tổng tài sản của các tổ chức này lên tới 3000 tỷ USD, như Quỹ Bill & Melinda Gates có tài sản 33,5 tỷ USD, tương đương GDP quốc gia xếp thứ 82 về thu nhập, trên cả 111 quốc gia khác.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">NPO tận dụng các phương tiện truyền thông, mạng Internet, nhất là các mạng xã hội, tạo ra sức ép dư luận rất lớn mà chính quyền không thể bỏ qua. NPO không chỉ nói lên ý kiến nguyện vọng của dân đối với nhà nước mà còn tổ chức các phong trào đấu tranh đòi chính quyền sửa các chính sách dân không tán thành. Thí dụ những cuộc mít tinh biểu tình rầm rộ có mấy trăm nghìn người tham gia phản đối sự phân biệt chủng tộc và chống chiến tranh Việt Nam hồi thập niên 60 đã làm chính phủ Mỹ phải thay đổi chính sách liên quan. Một số cuộc biểu tình kéo dài ngày này sang ngày khác làm chính quyền đau đầu. Những cuộc đấu tranh ấy có thể dẫn tới khủng hoảng chính trị nếu chính phủ không khéo léo giải quyết các yêu cầu của dân chúng.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Nước Mỹ gồm rất nhiều sắc tộc từ khắp thế giới đến định cư chứ không có sự thuần nhất chủng tộc (như Đức, Nhật thời xưa), quan niệm giá trị, tư tưởng chính trị của dân chúng rất đa dạng phức tạp, lại thêm giá trị cá nhân và vai trò làm chủ của công dân được đề cao thái quá, vì thế công việc của chính quyền gặp nhiều khó khăn. Thí dụ thị trấn Ojai ở bang California chỉ có 8000 dân (phần lớn là người hưu trí), trữ lượng dầu mỏ dưới lòng đất rất lớn nhưng dân ở đây đồng tâm nhất trí không cho khai thác dầu, chính phủ và các công ty cũng đành chịu.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Nhìn chung các TT Mỹ luôn ở vào thế trên đe dưới búa, phải vắt óc nghĩ cách thỏa hiệp điều hòa lợi ích của những phía gây sức ép lên họ. Các TT đều đau đầu vì phải đối phó với Quốc hội, đảng đối lập, dân chúng và các nhóm lợi ích. Chưa một TT nào giàu lên nhờ chức vụ của mình, ngược lại chỉ nghèo đi và tổn thọ [6].</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">***</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Nước Mỹ hiện nay đang ở vào thời kỳ khủng hoảng và suy thoái kinh tế. Đây là hậu quả tất nhiên của việc chuyển đổi mô hình kinh tế và toàn cầu hóa kinh tế. Thí dụ việc chuyển những ngành công nghiệp dùng nhiều nhân lực sang các nước nghèo, việc ưu tiên phát triển công nghệ cao và dịch vụ tài chính (là những ngành dùng ít nhân công nhưng thu lợi cao) đã gây ra nạn thất nghiệp tại nước Mỹ. Đây cũng là hậu quả của lối tiêu dùng kiểu Mỹ: làm ít tiêu nhiều, vay tiền của tương lai để chi tiêu hôm nay, rốt cuộc ngập trong nợ nần. Vì toàn cầu hóa kinh tế là trào lưu không thể ngăn cản cho nên khó tránh khỏi khủng hoảng kinh tế. Hơn nữa khủng hoảng diễn ra trên phạm vi toàn cầu nên từng quốc gia rất khó vượt qua nếu không có sự phối hợp toàn cầu.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Cũng như ở nhiều nước phương Tây khác, chính phủ Mỹ tỏ ra bất lực trong việc đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng. Dân chúng (chủ yếu là tầng lớp trung lưu) nhận thấy phải tự cứu mình, họ tổ chức Phong trào Chiếm Phố Wall, nêu khẩu hiệu “Chúng tôi là 99%” chống lại tình trạng 1% số dân nắm giữ 40% tài sản và chiếm hơn 20% thu nhập, chống lại việc nhà nước tài trợ cứu các ngân hàng. TT Obama và một số nhà giàu Mỹ cũng ủng hộ phong trào này.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Hiện nay giới tinh hoa tài chính Mỹ đang là đối tượng bị phong trào nói trên lên án, bởi họ chỉ tìm cách hợp pháp tăng thu nhập của mình trong khi thu nhập của dân bị giảm do khủng hoảng kinh tế.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Mối quan hệ tay ba chính quyền-dân chúng-nhà tư bản ngày một căng thẳng. 69% dân Mỹ không tin vào hệ thống ngân hàng và tài chính, 65% không tin Chính phủ, Quốc hội, và các đại công ty. Phong trào Chiếm Phố Wall đang lan rộng. Nền dân chủ Mỹ bị lung lay. Khủng hoảng kinh tế có khả năng trở thành khủng hoảng chính trị.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;">Đại suy thoái kinh tế thế giới thập niên 30 thế kỷ XX dẫn đến sự xuất hiện những lãnh tụ tài giỏi như TT F. Roosevelt ở Mỹ, Churchill ở Anh hoặc các nhà độc tài như Mussolini ở Ý, Hitler ở Đức (do các cử tri Đức bầu lên). Cuộc tranh cử TT Mỹ vẫn đang tiếp diễn nhưng chưa đến hồi quyết liệt. Lập trường ủng hộ dân của Obama có thể làm ông gặp khó trong cuộc bầu cử năm 2012; nhưng hiện nay xem ra chưa thấy ứng viên TT nào sáng giá hơn, có khả năng cứu nền kinh tế Mỹ. Người ta chỉ có thể chờ xem.</span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"><b>Nguyễn Hải Hoành</b></span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"><i>[1] Chiến tranh tiền tệ, bản dịch tiếng Việt, Nxb Trẻ, 6/2008</i></span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"><i>[2] http://www.brainyquote.com/quotes/a...</i></span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"><i>[3] Eisenhower warns of military-industrial complex</i></span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"><i>http://www.history.com/this-day-in-...</i></span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"><i>http://www.tapchicongsan.org.vn/Hom...</i></span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"><i>[4] Người Do Thái ở Mỹ - lực lượng quyết định chính sách của Mỹ tại Trung Đông</i></span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"><i>[5] Các TT Lincoln, Garfield, McKinley và Kennedy bị ám sát chết; hai TT Truman và Reagan bị ám sát nhưng không chết.</i></span></div>
<div style="margin-bottom: 0.3em; margin-top: 0.6em; padding: 0px;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; line-height: 16px;"><i>[6] Nước Mỹ áp dụng chế độ lương thấp cho viên chức nhà nước (khác với Singapore); lương TT không cao hơn giáo sư ĐH. Có 6 TT Mỹ về hưu trong nghèo túng, mắc nợ không trả được. 4 TT chết khi đang tại chức (Harrison, Taylor, Harding, F.Roosevelt)</i></span></div>
<br />Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-64430394497960902442012-08-30T00:56:00.000-07:002012-08-30T00:57:07.662-07:00Giao Chỉ và Tượng Quận<table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" style="background-color: white; height: 100%px; width: 100%px;"><tbody>
<tr><td align="center" height="40" valign="bottom"><div align="center">
</div>
</td></tr>
<tr><td valign="top"><div align="right">
<em>Trần Việt Bắc</em></div>
<br />
LTS: Người Việt chúng ta ai đã đọc và tìm hiểu về sử thì đều biết là sử nước Việt chỉ được bắt đầu được viết từ thời nước Việt có tự chủ, nói cho đúng hơn là từ thời Lý. Quyển sử đầu tiên được viết là Sử ký của Đỗ Thiện, rồi sau đó là Việt Chí của Trần Chu Phổ, rồi Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu. Những quyển sử này đã bị thất lạc. Quyển sử đầu tiên còn lại là Đại Việt Sử Ký Toàn thư (ĐVSKTT) của ông Ngô Sĩ Liên, từ khi lưu hành, đã được coi là bộ chính sử và được tham khảo bởi nhiều bộ sử khác.Quyển sử này đã ghi lại được những tài liệu trong sách của ông Lê Văn Hưu để chúng ta - hậu thế- có thể biết được những việc đã xảy ra trong quá khứ của tộc Việt. . Bộ sử này đã viết lại những việc từ ngày lập quốc của nước Việt, thời điểm cả ngàn năm trước khi ĐVSKTT được viết.Từ thời dựng nước mơ hồ với những truyền thuyết, rồi sau đó là hàng chục thế kỷ bị đô hộ, nào có ai ghi lại những việc đã xảy ra! (Mà nếu có ghi chép lại cũng sẽ bị thiêu hủy bởi những kẻ chiếm đóng; vì khác với quan niệm của họ!).<br />
Những sự kiện thành văn, ĐVSKTT một phần lớn đã tham khảo từ các sử sách của Trung Quốc. Tuy nhiên đây là những văn bản đầy thành kiến, theo quan niệm của một quốc gia thống trị viết về một quốc gia bị trị, thí dụ như Hậu Hán Thư quyển 116 chép về văn hóa của người Lạc Việt như sau: "<em>Người Giao Chỉ không phân biệt trưởng ấu... Không biết lễ giá thú, chỉ theo dâm hiếu mà không biết tình cha con, không biết đạo vợ chồng, ...</em>" (trích từ Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn) . Đây là những câu viết của người có quan niệm thống trị, tác giả là Phạm Việp. Ông ta không hiểu phong tục người Việt xứ Âu Lạc, cũng như không tìm hiểu thêm; để viết về một dân tộc có văn hoá và truyền thống khác hẳn Trung Quốc, nhận định theo quan điểm riêng, thiếu sự khách quan của một người viết sử.<br />
Bởi thế, sau khi tham khảo chúng ta chỉ nên lấy những sự kiện - sự kiện mà thôi -của các sử gia Trung quốc cho thời khuyết sử của tộc Việt. Sau đó phải so sánh các sự kiện này với sự kiện khác, kiểm chứng và rút tỉa ra những điều không bị cảm tính chi phối, may ra chúng ta mới biết được đâu là sự thật của quá khứ đã được ngoại bang ghi chép. Vì thế chúng ta phải rất thận trọng khi tham khảo cổ sử của Trung Quốc để tìm hiểu về sử nước nhà. Từ những tham khảo này, bộ ĐVSKTT đã dựng nên một quá khứ của tộc Việt cho thời khuyết sử mà một phần lớn đã tham khảo từ sử liệu của Trung Quốc. Điều này đã gây nên nhiều nghi vấn cho hậu hậu thế!<br />
Hậu thế chúng ta may mắn có được những phương tiện truyền thông tân tiến. Tham khảo sử liệu qua "internet" là một việc hết sức dễ dàng - nếu chúng ta muốn làm - ai cũng có thể tra cứu những tài liệu, mà ngày xưa, tiền nhân mong muốn nhưng không tìm được. Bằng chứng là rất nhiều người đang bàn thảo về sử Việt trong các diễn đàn ở các "Web site" khác nhau. Người viết cũng chỉ là một trong những người đang làm việc này, hoàn toàn làm theo sở thích và vì sự tò mò, với mong muốn được hiểu biết thêm về sử Việt. Biết đâu có thể góp ý cho những bạn đọc cùng sở thích, và đặc biệt là có thể cống hiến cho các bạn trẻ muốn tìm hiểu về sử Việt.<br />
Dù sự hiểu biết về sử rất giới hạn và cũng không biết lượng sức (hiểu biết về Hán học của người viết rất là thô thiển!), nhưng cũng cố gắng tìm câu trả lời để mong biết đâu là sự thật (!) cho những câu hỏi về nguồn gốc của mình, (với sự trợ giúp của các nhu liệu thông dịch <span class="style3" style="color: magenta;">(1)</span> cũng như bộ tự điển Hán Nôm của Thiều Chửu và những "chức năng" (function) của "Word").<br />
Mong mỏi được học hỏi thêm từ các học giả thông hiểu về sử học cũng như Hán học.<br />
----------------------------------------------<br />
Đại Việt Sử Ký Toàn thư là bộ chính sử của nước Việt, được viết lại với nhiều truyền thuyết của nhân gian và những tham khảo từ cổ sử của Trung Quốc cho thời gian khuyết sử của nước Việt, như Sử Ký của Tư Mã Thiên, Hán Thư của Ban Cố, Hậu Hán Thư của Phạm Việp cùng các bộ sử khác. Tuy nhiên ĐVSKTT đã có nhiều vấn đề khi tham khảo từ những sử liệu này. Như sử liệu bị chi phối vì hoàn cảnh và cảm tính của các sử gia, cùng những sự kiện đôi khi mâu thuẫn đã được nêu lên trong cổ sử của Trung Quốc. Việc này đã gây nên những tham khảo vòng quanh và sự suy đoán theo những chiều hướng khác nhau đầy hoang mang của hậu thế. Rồi những giả thuyết được đưa ra những tranh luận triền miên.<br />
Bài viết này, người viết xin nêu lên <strong>vấn đề tương quan giữa Giao Chỉ, tức là cổ Việt và Tượng Quận thời Tần</strong> để mong có sự góp ý của các bậc thức giả, ngõ hầu chúng ta có thể hiểu biết thêm về vấn đề nan giải này trong sử Việt .<br />
ĐVSKTT: <em>[i]Đinh Hợi, năm thứ 44 [214 TCN], (Tần Thủy Hoàng năm thứ 33). Nhà Tần phát những người trốn tránh, người ở rể người đi buôn, ở các đạo ra làm binh, sai hiệu úy Đồ Thư đem quân lâu thuyền, sai Sử Lộc đào ngòi vận lương, đi sâu vào đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất [b]Lục Dương [/b] (2), đặt các quận Quế Lâm, Nam Hải <strong>và Tượng Quận (tức là An Nam)</strong> ; ...".</em><br />
Sau đó là An Nam Chí Lược của Lê Tắc (Trắc), 1335, được in bởi Viện Đại Học Huế, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt nam, 1961. Được chuyển qua ấn bản điện tử bởi các ông Công Đệ, Doãn Vượng, Lê Bắc năm 2001: "<em>QUYỂN ĐỆ NHẤT, Tống Tự. Nhà Tần (246-207 trước công nguyên) <strong>lấy Giao Chỉ làm Tượng-Quận</strong>;...".</em><br />
Theo như trích dẫn trên thì <strong>An Nam (cổ Việt gồm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam) là Tượng Quận thời Tần.</strong> Câu viết này đã nêu lên một số nghi vấn cho các sử gia. Rồi từ nghi vấn này dẫn đến những nghi vấn khác cùng với các giả thuyết khác nhau. Điều này đã gây nên nhiều khó khăn cho sự tìm hiểu về sử Việt cho hậu thế - mà người viết là một.<br />
<br />
<strong>1- Quan tâm của các sử gia về vấn đề Giao Chỉ và Tượng quận.</strong><br />
<strong><u>Đại Việt Sử Cương</u></strong> (ĐVSC) của sử gia Trần Gia Phụng, tập 1, trang 74:<br />
"<em>1. <strong>Trung Hoa xâm chiếm cổ Việt</strong>. ... . Năm 214 TCN (đinh hợi), Tần Thủy Hoàng Đế (Ch'in Shih Huang-ti, trị vì 221-210 TCN) sai Đồ Thư và Sử Lộc cầm quân tiến xuống phía nam, vượt sông Dương Tử, chiếm vùng đất mà người Trung Hoa gọi là vùng Bách Việt, lập ra 3 quận là Quế Lâm (Kueilin, nay là vùng bắc và đông Quảng Tây), Nam Hải (Nanhai, tức Quảng Đông) và <strong>Tượng Quận (Hsiang, vùng Bắc Việt ngày nay)</strong>"</em> .<br />
Mặc dù ông Trần Gia Phụng viết là quân Tần xâm chiếm cổ Việt vì Tượng Quận là vùng Bắc Việt ngày nay, nhưng trong ghi chú số 27, trang 65, ông đã nêu lên vấn đề như sau:<br />
[i]" <em>Toàn Thư cũng như các bộ sử khác, kể cả Cương Mục chép theo các bộ sử Trung Hoa việc tướng nhà Tần đã chiếm đất Lĩnh nam và đặt ra các quận Quế Lâm (nay là vùng bắc và đông bắc Quảng Tây), quận Nam Hải (nay là Quảng Đông) và Tượng Quận (vùng cổ Việt) năm 2q14 TCN. Sau đó toàn thư và các bộ sử cũ của nước ta lại [b]<strong>viết thêm[/b] </strong>(tvb: do tác giả tô đậm) rằng: Lúc đó, tại cổ Việt có triều đại An Dương Vương (trị vì 257-208TCN). Về các sự kiện liên quan đến triều đại An Dương Vương, các câu hỏi được đặt ra là: Thục Phán, người nước Ba Thục ở tận Tứ Xuyên (Sichuan), Trung Hoa, sao có thể qua tới cổ Việt để đánh Hùng Vương? [Phía bắc của Bắc Việt là hai tỉnh Vân nam (Yunnan) ở tây bắc và Quảng Tây (Giangxi) ở đông bắc. Phía bắc hai tỉnh này mới là Tứ Xuyên.] Chuyện nỏ thần có thể là lịch sử hay không? Cuối cùng,[b] <strong>nếu năm 214 TCN cổ Việt bị quân Hán chiếm và đổi thành Tượng Quận[/b]</strong> rồi, thì cần gì Triệu Đà phải đánh lần nữa vào các năm 210 TCN và 208 TCN? Vậy phải chăng chuyện An Dương Vương chỉ là truyền thuyết</em>".[/i]<br />
Một lần nữa, trong ghi chú số 5, trang 100, ông lại nêu lên sự quan tâm của mình:<br />
[i]" .... <em>. Ở đây có một điểm trong các sách sử cũ <strong>cần cẩn án</strong>: 1) Nếu theo các bộ sử cũ, năm 214TCN, Đồ Thư và Sử Lộc chiếm đất Lĩnh Nam (phía nam núi Ngũ Lĩnh) lập ra 3 quận Quế Lâm, Nam hải và Tượng Quận,[b] <strong>mà Tượng Quận bao gồm cả cổ Việt</strong>,[/b] thì tại sao các bộ sử cũ còn chép rằng Triệu Đà hai lần đánh cổ Việt, năm 210 TCN và năm 208 TCN? Nếu Triệu Đà phải đem quân đi đánh cổ Việt,[b] <strong>có nghĩa là lúc đó người Trung Hoa chưa chiếm được cổ Việt.[/b]</strong> 2) Thứ nhì, nếu cổ Việt đã rơi vào tay Đồ Thư từ năm 214 TCN, <strong>thì chuyện An Dương Vương dùng nỏ thần để chống cự với Triệu Đà chỉ là chuyện truyền thuyết không có thật"</strong></em>. [/i]<br />
<strong>Vậy nếu Tượng quận gồm cổ Việt thì sử liệu nói về An Dương Vương chỉ là truyền thuyết! </strong><br />
<strong><u>Việt Nam Sử Lược</u></strong> (VNSL) của sử gia Trần Trọng Kim, ấn bản đầu tiên năm 1921, được in lại bởi nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin, 1999, trang 29:<br />
" <em>3. <strong>Nhà Tần Ðánh Bách Việt.</strong> Khi An Dương Vương làm vua nước Âu Lạc ở bên này, thì ở bên Tàu vua Thủy Hoàng nhà Tần, đã nhất thống thiên hạ. Ðến năm đinh hợi (214 trước Tây lịch). Thủy Hoàng sai tướng là ÐồThư đem quân đi đánh lấy đất Bách Việt (vào quãng tỉnh Hồ Nam, Quảng Ðông và Quảng Tây bây giờ). <strong>An Dương Vương cũng xin thần phục</strong> <strong>nhà Tần.Nhà Tần mới chia đất Bách Việt và đất Âu Lạc ra làm ba quận</strong>, gọi là: Nam Hải (Quảng Ðông), Quế Lâm (Quảng Tây) và <strong>Tượng Quận (Bắc Việt </strong></em><span class="style3" style="color: magenta;">(2)</span><em><strong>)</strong>.</em><br />
<em>Người bản xứ ở đất Bách Việt không chịu để người Tàu cai trị, trốn vào rừng ở. Ðược ít lâu quân của Ðồ Thư, vốn là người ở phương bắc, không chịu được thủy thổ, phải bệnh rất nhiều. Bấy giờ người Bách Việt thừa thế nổi lên giết được Ðồ Thư".</em><br />
<br />
Theo sử gia Trần Trọng Kim; thì Bắc Việt (cổ Việt) là Tượng quận thời nhà Tần.<br />
<strong><u>Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt </u></strong>(NGMLCDTV) 1971, được in lại bởi nhà xuất bản Xuân Thu, Los Alamitos California. Tác gỉa là nhà văn và cũng là học giả Bình Nguyên Lộc. Đây là một bộ sách khá dầy, nặng phần khảo cứu về ngữ pháp, gần 900 trang (khổ nhỏ) . Tác giả đã viết một đoạn khá dài (từ trang 221 đến trang 287) trong chương 2: " <strong>Những sai lầm",</strong> tiết mục D: "NƯỚC TÂY ÂU MƠ HỒ VÀ TƯỢNG QUẬN BÍ MẬT", để nói về sự phản tương quan giữa cổ Việt và Tượng Quận. Ông đã đưa ra những nhận xét (với cách hành văn châm biếm và đôi khi hài hước của một văn sỹ, cùng với những kiến thức của một học giả uyên bác về ngữ học, phê bình về những sử liệu mà theo ông là ngụy tạo, đây là một điều rất hào hứng cho người viết!) để nói lên những sai lầm về giả thuyết của các học giả như: L. Aurousseau, H. Maspéro, Trần Kinh Hòa, Nguyễn Phương,... . Sau đó ông dùng "4 bằng chứng", đặc biệt là bằng chứng thứ 4, đã được coi là bằng chứng "quyết định" để ông có thể đi đến những kết luận như sau:<br />
Trang 283:<br />
<em>" Với câu sử của Tư Mã Thiên và Lưu An </em><span class="style3" style="color: magenta;">(3)</span><em> và những gì chúng tôi đưa ra để bác bỏ các thuyết, ta đã làm sáng tỏ được:</em><br />
<em>1.- Tần không hề đánh xuống khỏi Hạ-chí -Tuyến Bắc, tức <strong>Tây Âu không là cổ Việt</strong>.</em><br />
<em>2.- Tâu Âu Lạc là một địa danh hoàn toàn không có.</em><br />
<em>3.- Huyện Tây Vu không thể là nước Tây Âu hùng mạnh.</em><br />
<em>4.- Thượng du tả ngạn Nhĩ Hà không thể là nước Tây Âu hùng mạnh.</em><br />
<em>5.- Trạch Hu Tống là vua của Tây Âu, theo Lưu An chép. Khi Tây Âu không là Bắc Kỳ, không là Thượng du Bắc Việt thì Trạch Hu Tống </em><span class="style3" style="color: magenta;">(4)</span><em> chẳng dính líu gì tới cổ Việt hết.</em><br />
<em>6.-<strong>Tượng Quận không hề là Bắc Kỳ</strong>, vì Tần Thỉ Hoàng không có chiếm Tượng Quận.<br />7.- Không có chánh sách trồng người tại cổ Việt Nam để đẩy dân Việt nam vào thế thiểu số."</em><br />
Đặc biệt là trong chương này ông cũng đã đưa ra một giả thuyết khá lý thú về nguồn gốc của An Dương Vương, tuy nhiên đây không phải là trọng tâm của đề tài, nên người viết hy vọng có thể sẽ trình bày vấn đề này trong một bài viết khác trong tương lai.<br />
<strong><u>Việt Sử Toàn Thư</u></strong> (VSTT) của sử gia Phạm văn Sơn, ấn bản đầu tiên năm Canh Tí (1960), tái bản bởi nhà xuất bản Đại Nam, tủ sách sử học, trang 50:<br />
" <em>Về Tượng Quận, Việt Nam Sử Lược chép là Bắc Việt . <strong>Chúng tôi không đồng ý</strong> vì Bắc Việt khi đó là Âu Lạc đã thành Tượng Quận thì sau nầy đâu có sự kiêm tính của Triệu Ðà bằng binh đao, chúng tôi cũng <strong>không thấy sách nào nói như Việt Nam Sử Lược rằng An Dương Vương đầu phục nhà Tần để quyết định rằng vì sự thần phục nầy mà Âu Lạc biến thành Tượng Quận</strong>. Tóm lại ảnh hưởng của nhà Tần bấy giờ chỉ mới đến địa phận Tây Âu là tỉnh Quảng Tây và miền Uất Lâm cùng Nam Hải. Sau đó Tần triều phái 50 vạn người tù đầy đến chiếm đóng các nơi đã cướp được để bảo vệ bộ máy cai trị vừa mới thiết lập".</em><br />
Ông Phạm Văn Sơn cũng đưa ra thêm ghi chú ở cuối trang 50 này như sau:<br />
"<em>Theo Trúc Khê tiên sinh: Sử ta nói Tượng Quận nhà Tần là đất Bắc Kỳ. Trung Kỳ bây giờ, song so sánh địa lý và dẫn chứng với các sách thì Tượng Quận chính thuộc về một phần đất của tỉnh Quảng Tây nước Tần ngày nay. Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim nói <strong>Tượng Quận là đất Bắc Kỳ có thể không đúng.</strong>.</em><br />
Sử gia Phạm Văn Sơn đã <u>không</u> đồng ý Giao Chỉ là Tượng quận, tuy nhiên <strong>ông không đưa ra những chứng minh qua sử liệu </strong>để phản bác vấn đề Giao Chỉ là Tượng quận thời Tần<br />
Vậy qua sử sách hiện đại và cận đại, chúng ta thấy vẫn đang có những sự mâu thuẫn. Sự việc đã dẫn tới nghi vấn lớn và khó hiểu hơn nữa là xuất xứ của An Dương Vương. Nhiều giả thuyết đã nêu lên về vấn đề này, tác giả ĐVSKTT- ông Lê Văn Hưu và sau đó là ông Ngô Sỹ Liên cùng các sử gia khác trong các thời sau - đã đặt làm một thời kỳ riêng là "Kỷ nhà Thục, An Dương Vương" trong sử Việt. Điều này làm cho hậu thế hoang mang, vì không biết đâu là sự thật của lịch sử!<br />
<strong>2- Giao Chỉ và Tượng quận qua thư tịch cổ </strong><span class="style3" style="color: magenta;">(5)</span> <strong>của nước Việt</strong><br />
Ngược dòng thời gian, người viết xin trích dẫn những tài liệu trong thư tịch có liên quan đến vấn đề Giao Chỉ và Tượng quận.<br />
<strong><u>Phương Đình Địa Dư Chí</u></strong> (PĐĐDC)của Nguyễn Văn Siêu <span class="style3" style="color: magenta;">(6)</span>, <em>"lần đầu in bằng chữ Hán vào năm Canh Tý (1900), niên hiệu Thành Thái thứ 12</em>", tái bản bởi nhà xuất bản Văn Hoá - Thông Tin, trang 28: "<em>Nhật Nam thái thú: Vua Hán Vũ đế đổi <strong>Tượng quận nhà Tần là Nhật Nam</strong>. Nhà Ngô lại đặt là quận Cửu Đức. ...</em>".<br />
Ông Nguyễn Văn Siêu cho là Nhật Nam thuộc về Tượng quận (Nhật Nam ở xa hơn về về phía nam so với Cửu Chân và Giao Chỉ).<br />
<strong><u>Đại Nam Nhất Thống Chí</u></strong> (ĐNNTC) của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, nhà xuất bản Thuận Hoá, khi viết về các tỉnh miền trung châu Bắc Việt đã viết như sau (thí dụ điển hình là tỉnh Bắc Ninh)":<br />
"<em>Dựng đặt và diên cách. Đời Hùng Vương xưa là bộ Vũ Ninh, <strong>đời Tần thuộc Tượng quận</strong>, đời Hán thuộc quận Giao Chỉ, tức là đất hai huyện Luy Lâu và Long Biên, ....".</em><br />
Các sử quan triều Nguyễn vẫn coi Bắc Việt (cổ Việt) là Tượng quận đời Tần.<br />
<strong><u>Vân Đài Loại Ngữ</u></strong> (VĐLN) của Quế Đường Lê Quí Đôn do Phạm Vũ và Lê Hiền dịch và chú giải, xuất bản bởi nhà sách Tự Lực, trang 167:<br />
"<em> Đời An Dương Vương, quân nhà Tần sang đánh cướp lấy miền đất Lục-lương của Nam Việt (người Lĩnh-nam phần nhiều ở vào khoảng đất núi, tính người cương cường nên gọi là Lục Lương), đặt ra các quận: Quế -lâm; Nam hải; Tượng -quận (Quế -lâm nay là Quảng-tây; Nam-hải nay là Quảng-đông;<strong>Tượng-quận nay là nước ta</strong></em>).<br />
Qua trích dẫn trên, ông Lê Quí Đôn cũng đã viết Tượng quận là cổ Việt.<br />
<strong><u>Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục</u></strong> (KKĐCSTGCM hay Cương Mục) . Quốc Sử Quán Triều Nguyễn soạn thảo (1856-1881). Viện Sử Học dịch (1957-1960). Nhà xuất bản Giáo Dục (Hà Nội) ấn hành 1998. Trong quyển 1: đề tài "Hùng Vương dựng nước" viết như sau:<br />
" <em>Năm Đinh Hợi (214 tr.c.ng.) (Thục An Dương Vương năm thứ 44; Tần Thủy Hoàng năm thứ 33). Nhà Tần sai Đồ Thư và Sử Lộc sang lấy đất Lĩnh Nam, đặt ra Tượng quận.</em><br />
<em>Bấy giờ nhà Tần hám đất Việt có nhiều ngọc trai và ngọc cơ, muốn chiếm lấy đặt làm quận huyện, mới bắt kẻ trốn tránh, người gửi rể và lái buôn ở các đạo đi làm lính, sai hiệu úy là Đồ Thư làm tướng, Sử Lộc thì khơi cừ lấy lối tải lương, đi sâu vào cõi Lĩnh Nam, cướp lấy đất Lục Lương, đặt ra Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đày những kẻ phải đi thú . Người Việt bấy giờ đều rủ nhau núp vào trong rừng rậm, không ai chịu để cho người Tần dùng. Lại ngầm bầu những người tài giỏi lên làm tướng, đánh nhau với người Tần, giết được hiệu úy Đồ Thư.</em><br />
<strong><em>L</em></strong><strong><em>ời chua:</em></strong><em> .... Quế Lâm, Nam Hải, Tượng quận: Theo sách Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi nhà Tống, ba quận ấy là đất Bách Việt ngày trước, từ Tần Thủy Hoàng lấy được thiên hạ, mở núi dọn đường, cướp lấy đất Dương, Việt, đặt ra Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận. Bây giờ tỉnh Quảng Tây tức là Quế Lâm, tỉnh Quảng Đông tức là Nam Hải<strong>, đất Giao Chỉ tức là Tượng Quận đời Tần.</strong>". </em><br />
Các sử quan triều Nguyễn nói cổ Việt là Tượng quận thời Tần.<br />
<strong><u>Việt Sử Tiêu Án</u></strong>, soạn giả: Ngọ Phong Ngô Thời Sỹ 1775. Dịch giả: Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu 1960. Nhà xuất bản: Văn Sử 1991. Chuyển sang ấn bản điện tử bởi: Công Đệ, Doãn Vượng, Lê Bắc 2001. Kỷ: Ngoại Thuộc: Nhà Triệu, Triệu Đà .<br />
"<em>Nhà Tần cho là <strong>nước Việt ta</strong> nhiều châu báu, muốn chia nước ta ra làm quận huyện, sai Hiệu úy là Đồ Thư mang quân vào sâu mãi Lĩnh Nam lấy đất Lục Lương <strong>đặt ra Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận 1.</strong> <strong>Người Việt ta</strong> đều chạy trốn vào trong rừng rậm, không chịu để cho nhà Tần dùng, ngầm đặt Kiệt Tuấn làm tướng, đương đêm đánh Đồ Thư, nhà Tần bèn mang 500 vạn dân phát vãng đi đày sang ở đó, cử Nhâm Ngao làm quan Úy ở Nam Hải, Triệu Đà là quan lệnh Long Xuyên"</em>.<br />
Không thấy ông Ngô Thời Sỹ nói rõ về việc Giao Chỉ là một phần của Tượng quận, nhưng chữ "<em>nước Việt ta</em>" và "<em>người Việt ta</em>" đã nói lên việc quân Tần đã tấn công cổ Việt.<br />
Khi nói về thời Triệu Đà ông viết như sau:<br />
"<em>Xét sử cũ: An Dương Vương mất nước, để quốc thống về họ Triệu, chép to 4 chữ: "Triệu Kỷ Vũ Đế". Người đời theo sau đó không biết là việc không phải. Than ôi! <strong>Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là Đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.</strong> <u>Triệu Đà khởi ở Long Xuyên</u>, lập quốc ở Phiên Ngung, muốn cắt đứt bờ cõi, gồm cả nước ta vào làm thuộc quận, đặt ra giám chủ để cơ mi lấy dân, chứ chưa từng đến ở nước ta"</em> .<br />
Qua câu viết này, dù không trực tiếp viết ra, nhưng người viết cho là ông cũng đã <strong>gián tiếp công nhận Giao Chỉ nằm trong Tượng quận.</strong><br />
Ở cuối trang, dịch giả viết trong ghi chú 1 như sau: "<em>1 Tượng Quận. Quận do nhà Tần đặt, song chỉ có tên, chưa có đất và chưa có bộ máy hành chính cấp quận. Xưa nay <strong>nhiều người lầm Tượng Quận bao gồm cả đất Việt Nam ngày na</strong>y.</em>"<br />
<strong><u>Đại Việt Sử Ký Tiền Biên</u></strong> của ông (Ngô Thời Sỹ) cũng viết: "<strong><em>Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là Đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam".</em></strong>Người viết xin đặt câu hỏi về đoạn văn này.<br />
<strong>[b]<u>Đại Việt Sử Ký Toàn Thư</u>[/b] (</strong>ĐVSKTT quyển 1, trang 138) viết như sau (với ghi chú số 2 và 3, của người dịch):<br />
<em>[i]Đinh Hợi, năm thứ 44 [214 TCN], (Tần Thủy Hoàng năm thứ 33). Nhà Tần phát những người trốn tránh, người ở rể [8b] người đi buôn, ở các đạo ra làm binh, sai hiệu úy Đồ Thư đem quân lâu thuyền, <strong>sai Sử Lộc đào ngòi vận lương</strong>, <strong>đi sâu vào đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất [b]Lục Dương [/b] (2)</strong></em><span class="style3" style="color: magenta;">(7)</span><em><strong>, đặt các quận Quế Lâm (nay là huyện Quý của đất Minh, Quảng Tây), Nam Hải (nay là tỉnh Quảng Đông) và Tượng Quận (tức là An Nam) </strong> ; cho Nhâm Ngao làm Nam Hải úy, Triệu Đà làm Long Xuyên lệnh (Long Xuyên là thuộc huyện của Nam Hải), đem những binh phải tội đồ 50 vạn người đến đóng đồn ở <strong>Ngũ Lĩnh</strong>, Ngao và Đà nhân đó mưu xâm chiếm nước ta.</em><br />
(Chuế tế: con trai không có tiền nộp sính lễ, lấy thân ở gửi nhà vợ nên gọi là chuế tế [ở gửi rể] như cái bướu ở mình người ta, là vật thừa. Lục Lương là người Lĩnh Nam phần nhiều ở chỗ núi rừng, trên cạn (lục), tính người mạnh tợn (cường lương) nên gọi là[b] <strong>Lục Lương [/b]</strong>). [/i]<br />
<strong>Câu hỏi được đặt ra: Tượng Quận bao gồm cổ Việt hay ở ngoài cổ Việt ? Đâu là sự thật của lịch sử ?</strong><br />
<strong>3- Tìm hiểu nguồn gốc của vấn đề.</strong><br />
Chúng ta cũng biết rằng, thư tịch hay các sách về sử của nước Việt chỉ được viết ra từ thời Lý. Đầu tiên là Sử Ký của Đỗ Thiện <span class="style3" style="color: magenta;">(8)</span>, Việt Chí của Trần Chu Phổ <span class="style3" style="color: magenta;">(9)</span>, Đại Việt Sử Ký cuả Lê Văn Hưu <span class="style3" style="color: magenta;">(10)</span>(những sách này đã bị thất lạc), Đại Việt Sử Lược của tác giả Khuyết Danh <span class="style3" style="color: magenta;">(11)</span>, ĐVSKTT của Ngô Sĩ Liên, v.v.... Những sách này đã tham khảo và lấy những sử liệu từ những bộ sử của Trung Hoa như sách Hoài Nam Tử của Hoài Nam Vương Lưu An (trình cho Hán Vũ Đế năm 139 TCN), Sử Ký của Tư Mã Thiên (năm 97 TCN), Hán Thư của Ban Cố (khoảng năm 92, là năm ông này bị chết trong ngục, bộ sử này sau đó đã được hoàn tất bởi cô em gái là Ban Chiêu), Hậu Hán Thư của Phạm Việp ( khoảng trước năm 445 là năm ông này bị giết) v.v... . Tuy nhiên khi tham khảo những sử liệu được viết từ một quốc gia "thống trị"; để viết sử cho một quốc gia đã qua một thời gian "bị trị", các sử gia phải vô cùng cẩn thận, từ việc so sánh các sử liệu về việc đồng nhất của các sự kiện, còn phải phân tách, phán đoán, lý giải để tìm hiểu sự thật của lịch sử. Vì các sử gia của quốc gia thống trị đã viết sử theo quan niệm của họ, nhiều khi đến độ sai lầm vì nhiều lý do khác nhau. Nếu những tham khảo được lấy từ những điều chủ quan hay sai lầm để viết sử nước nhà, hậu thế sẽ đọc được những sự việc trong quá khứ với đầy nghi vấn và hoang mang với câu hỏi đâu là sự thật ?<br />
Sử gia Phạm Văn Sơn đã nêu ra vấn đề là cổ Việt (hay Giao Chỉ và Cửu Chân) không phải là Tượng quận thời Tần, dù trong các thư tịch và cổ sử của nước Việt cũng như cận và hiện đại đều nói như thế.<br />
Người viết đã trích dẫn đoạn văn của ĐVSKTT nói về Tượng Quận: "...<em> đặt các quận Quế Lâm (nay là huyện Quý của đất Minh, Quảng Tây)30, Nam Hải (nay là tỉnh Quảng Đông) <strong>và Tượng Quận (tức là An Nam) (3) ". </strong></em><br />
Đoạn văn với cước chú số (3) trang 138, tập 1 viết như sau:<br />
"<em>3 Tượng Quận: tên quận đời Tần mà trước đây nhiều sách sử của ta và của Trung Quốc đều chú giải là quận Nhật Nam, hay bao gồm cả ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thời Hán, <strong>tức đất An Nam</strong>. Thuyết đó là dựa vào một câu cước chú của Hán Thư (q.28 hạ, tr. 11a) về quận Nhật Nam thời Hán: "<strong>Quận Nhật Nam - quận Tượng thời Tần ngày trước</strong>". Nhưng từ cuối thế kỷ XIX, thuyết đó đã bị phê phán. Chính Hán thư phần Bản Kỷ (q.7 tr.9a) chép rõ rằng: "<strong>Năm thứ 5 hiệu Nguyên Phương (76 TCN), bãi bỏ quận Tượng, chia đất</strong>". </em><br />
Dù đây chỉ là cước chú <span class="style3" style="color: magenta;">(12)</span> trong ĐVSKTT, nhưng tài liệu này đã chỉ ra manh mối cho người viết, đã giúp rất nhiều cho việc tìm hiểu về cội nguồn của vấn đề.<br />
Hán Thư, quyển 28 <span class="style3" style="color: magenta;">(13)</span> "<em>Địa lý chí đệ bát hạ" </em>viết về quận Nhật Nam như sau : "<strong><em>Quận Nhật Nam, là Tượng Quận cũ thời Tần .... . Thuộc Giao Châu</em>"</strong><br />
Hán Thư, quyển 7 <span class="style3" style="color: magenta;">(14)</span> " <em>Thiệu Đế kỷ đệ thất" </em>viết về việc bãi bỏ Tượng quận và chia quận này làm hai, sát nhập vào hai quận Uất Lâm và Tường Kha <em>:</em> "<strong><em>Mùa thu, bãì bỏ Tượng Quận, chia và sát nhập vào Uất Lâm, Tường Kha</em></strong><em>". </em><br />
Hai quận Uất Lâm và Tường Kha ở phía đông bắc tỉnh Quảng Tây và một phần của Tứ Xuyên, rất xa quận Nhật Nam, nên khó có thể nghĩ rằng Nhật Nam là Tượng Quận thời Tần. Vì thế người viết nhận thấy <strong>vấn đề về "Giao Chỉ và Tượng quận" bắt nguồn từ việc tham khảo sử liệu trong Hán Thư của Ban Cố</strong>. Bộ sử này; hai quyển 7 và 28 đã nêu lên mâu thuẫn về vấn đề Tượng Quận và Giao Chỉ. Vì chỗ toạ lạc của hai địa danh này ở quá xa nhau.<br />
Câu hỏi được đặt ra:<br />
<strong>- Tượng Quận thời Tần nằm ở đâu? Ở phía tây bắc Quảng Tây ngày nay; hay kéo dài xuống phía nam tới tận quận Nhật Nam, và bao gồm cả Giao Chỉ là nước Việt cổ ?</strong><br />
<strong>- Giao Chỉ có bị quân Tần đánh và chiếm đóng không? </strong><br />
Bởi vì nếu Giao Chỉ là Tượng Quận hay nằm trong Tượng Quận thì Giao Chỉ đã bị quân Tần đánh và chiếm đóng. Còn như nếu Giao Chỉ nằm ngoài Tượng Quận thì Giao Chỉ không bị quân Tần xâm lăng, vì chỉ có thể chiếm đóng sau khi đã thành công trong việc dùng võ lực để xâm lăng.<br />
Theo thiển ý, để hiểu rõ về một biến cố xảy ra, chúng ta cần ba yếu tố chính. Đó là nhân vật, thời gian và không gian (địa điểm). Các sử liệu đã đưa ra tên của nhân vật, thời gian, và địa điểm - nơi đã xảy ra những diễn biến này . Tuy nhiên tên những địa điểm nơi xảy ra biến cố đã bị biến đổi theo thời gian; cũng như qua các triều đại. Vì vậy, hậu thế rất khó có thể mường tượng được những nơi liên quan đến biến cố này nếu không có họa đồ để tham khảo.<br />
<br />
<br />
<hr />
1. "<strong>HanoConv1.0</strong>", "<strong>Hanosoft</strong>". Xin thành thật cám ơn các quý vị trong hội Hán Nôm đã thiết lập nên những nhu liệu này và cho phép xử dụng miễn phí. Không có các nhu liệu này thì bài viết này sẽ không thể hoàn tất!.<br />
<div id="ftn2">
2. Trong ấn bản điện tử hiện đang lưu hành trên internet ghi là "<em>Tượng Quận (<strong>Bách </strong>Việt)</em>". Tuy nhiên người viết thấy trong bản chính (sách), ông Trần Trọng Kim viết là "<em> Tượng Quận </em>(<strong><em>Bắc </em></strong><em>Việ)t" .</em></div>
<div id="ftn3">
3. Lưu An viết sách Hoài Nam Tử. Người viết sẽ viết thêm về nhân vật này trong phần sau của bài viết.</div>
<div id="ftn4">
4. Nhiều sách viết là Dịch Hu Tống. Người viết sẽ dùng tên này.</div>
<div id="ftn5">
5. Người viết mạn phép gọi là "thư tịch cổ" cho những tài liệu từ thời nhà Nguyễn trở về trước là những thư tịch viết bằng Hán tự.</div>
<div id="ftn6">
6. Nguyễn Văn Siêu sinh năm Kỷ Mùi ( 1799), tự là Tốn Ban, hiệu là Phương Đình, người làng Lủ ( Kim Lũ), huyện Thanh Trì, Hà Nội. Văn nhân nổi tiếng cùng thời với Cao Bá Quát với câu đối khen tặng của vua Tự Đức:<br />
"<em>Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán,</em><br />
<em>Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường</em>"<br />
Tùng: Tùng Thiện vương. Tuy: Tuy Lý Vương.</div>
<div id="ftn7">
7. (2) ĐVSKTT : Đây viết là Lục Dương, cuối câu viết là Lục Lương .<br />
Sử Ký của Tư Mã Thiên trong “Nam Việt Úy Đà liệt truyện viết là Dương Việt. Cũng trong Sử Ký, phần Tần Thủy Hoàng bản kỷ viết là Lục Lương. Vậy theo thiển ý, tác giả ĐVSKTT gồm hai chữ Lục Lương và Dương Việt thành chữ Lục Dương ở đây.</div>
<div id="ftn8">
8. Sử Ký của Đỗ Thiện được viết sau năm 1135, khoảng dưới triều Lý Anh Tông (1138-1175).</div>
<div id="ftn9">
9. Quyển sử này được viết trước sách Đại Việt Sử Ký (1272) của Lê Văn Hưu.</div>
<div id="ftn10">
10. Đại Việt Sử Ký (ĐVSK) của Lê Văn Hưu, gồm 30 quyển, hoàn tất năm 1272.</div>
<div id="ftn11">
11. Đầu thời nhà Trần, người viết phỏng đoán là sách này được viết trong khoảng thời gian từ 1234 đến 1258.</div>
<div id="ftn12">
12. Trang mở đầu của bộ ĐVSKTT : " ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ. Bản in Nội các quan bản. MỘC BẢN KHẮC NĂM CHÍNH HÒA THỨ 18 (1697). tập 1. Lời giới thiệu: Giáo sư Viện sĩ: Nguyễn Khánh Toàn. Khảo cứu về tác gỉa, văn bản và tác phẩm: Giáo sư Phan Huy Lê. <strong>Dịch và chú thích: Ngô Đức Thọ</strong>. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn. NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI, HÀ NỘI - 1998</div>
<div id="ftn13">
13.<a href="http://www.chinaknowledge.de/Literature/Historiography/hanshu.html" style="color: #000099; text-decoration: none;">http://www.chinaknowledge.de/Literature/Historiography/hanshu.html</a><br />
<strong>"</strong><em>Nhật Nam quận, cố Tần Tượng quận</em><strong><em>,</em></strong><em> Vũ Đế Nguyên Đỉnh lục niên khai, cánh danh . Hữu tiểu thuỷ thập lục, tịnh hành tam thiên nhất bách bát thập lí (3110 dặm). Thuộc Giao Châu" </em><em>.</em></div>
<div id="ftn14">
14. Hán Thư quyển thất. Thiệu Đế kỷ đệ thất : "<em>thu , bãi Tượng quận, phân thuộc Uất Lâm, Tường Kha</em>".Hán thư của Ban Cố, quyển 7 viết:[i] "<em>Thu , bãi Tượng Quận, phân thuộc Uất Lâm</em><em>,</em><em>Tường Kha [/i]</em><br />
<em><br /></em>
<em><u><b><span style="font-size: large;"> bài 2: </span></b></u></em><br />
<em><br /></em>
<br />
<strong>4- Quân Tần mang quân đi đánh Bách Việt từ lúc nào? </strong> <strong></strong><br />
Sau khi gồm thâu sáu nước để thống nhất Trung Hoa năm 221BC, Tần Thủy hoàng muốn mở rộng đế quốc. Về hướng nam Trung Hoa, Thủy hoàng đã ra lệnh cho Đồ Thư mang quân đi chinh phục Lĩnh Nam.<br />
Như đã trích dẫn trong ĐVSKTT trong phần trên cùng với sách Sử Ký của Tư Mã Thiên, Tần Thủy Hoàng bản kỷ, dịch giả Nhữ Thành : “<em>Năm thứ 33 (214TCN),Thủy Hoàng đưa những người thường trốn tránh,những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương,lập thành Quế Lâm,Tượng Quận,Nam Hải cho những người bị đi đày đến đấy canh giữ”<span class="style2" style="color: red;">(1)</span>.</em><br />
Qua đoạn sử liệu trên chúng ta chỉ biết là năm 214 TCN, nhà Tần coi như đã chiếm được một vùng đất ở Lĩnh Nam, đặt làm 3 quận. Tuy nhiên sử liệu này đã không nói là quân Tần bắt đầu mang quân vào Lĩnh Nam từ lúc nào.<br />
Để biết lúc nào quân Tần bắt đầu xâm lăng, “<strong>Nam</strong><strong> Việt Úy Đà liệt truyện"</strong> <strong> </strong>(Sử Ký) viết: “<strong>...</strong><em>Vua Nam Việt họ Triệu tên là Đà người huyện Chân Định, trước làm quan úy. Bấy giờ nhà Tần đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đưa những người bị đày đến ở lẫn với người Việt. </em> <strong><em>Như thế đã mười ba năm.</em></strong> <em>Thời Tần, Đà được làm lệnh ở huyện Long Xuyên, thuộc quận Nam Hải”.</em><br />
Câu dịch “<em>Như thế đã mười ba năm</em>" rất khó hiểu, vì câu viết có tính cách tương đối, 13 năm so với thời điểm nào? Vì việc này, người viết xin trích dẫn sách Sử Ký với tam gia chú- quyển 113- Nam Việt Uý Đà liệt truyện: “<em>Tập giải Từ Quảng viết </em><em>:“Tần tịnh thiên hạ, chí Nhị Thế nguyên niên (209 TCN) thập tam niên. Tịnh thiên hạ bát tuế (8 năm), nãi bình Việt địa, chí Nhị Thế nguyên niên lục niên (214 TCN) nhĩ</em>".<br />
Qua lời chú này, chúng ta thấy là khi nhà Tần chiếm xong 6 nước kể từ năm Nhị Thế nguyên niên (209 TCN) là 13 năm: 209 +(13-1)<span class="style2" style="color: red;">(2)</span> = 221 TCN. Phù hợp với việc "biên niên" trong chính sử Trung Quốc.<br />
Nhà Tần “<em>bình Việt địa</em>" trong 8 năm, tới năm thứ sáu thời Nhị Thế là năm 214 TCN. Vậy nhà Tần bắt đầu chuẩn bị sự bành trường đế quốc nhà Tần là : 214 + (8 -1) = 221 TCN. Tuy nhiên người viết nhận thấy là khi vừa chiếm xong sáu nước, Thủy Hoàng đế phải có một thời gian để chuẩn bị quân đội, như việc "bắt lính" từ các nước vừa chiếm như “<em>đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn</em>" (ĐVSKTT) cũng như lương thực cho đạo quân nam chinh này.<br />
Vì thế, người viết nghĩ là một năm sau, đó là năm <strong>220 TCN</strong> , thời điểm này quân Tần mới có đủ thời gian để mang quân đi xâm lăng Bách Việt<br />
<strong>5- Địa điểm đóng quân của quân Tần</strong><br />
Quân Tần đóng quân ở chỗ nào?<br />
Không thấy các bộ chính sử nói rõ về việc này, chỉ viết vắn tắt là Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư mang 500 ngàn quân vượt Ngũ Lĩnh (?) để xâm chiếm Lĩnh Nam (?).<br />
ĐVSKTT: “<em>Đinh Hợi, năm thứ 44 [214 TCN], (Tần Thủy Hoàng năm thứ 33)</em>. <em>Nhà Tần phát những người trốn tránh, người ở rể người đi buôn, ở các đạo ra làm binh, sai hiệu úy Đồ Thư đem quân lâu thuyền, sai Sử Lộc đào ngòi vận lương, đi sâu vào đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất Lục Dương… </em><br />
<em>...đem những binh phải tội đồ 50 vạn người đến <strong>đóng đồn ở Ngũ Lĩnh</strong>”.</em><br />
<strong>a. Sách Hoài Nam Tử </strong><span class="style2" style="color: red;">(3)</span><br />
Tuy nhiên có một tài liệu khá lý thú đã nói về nơi chốn quân Tần đồn trú, cũng như những biến cố trong chiến dịch này, dù rất sơ lược, nhưng rất là quý giá. Đó là sách Hoài Nam Tử của Lưu An, quyển 18, chương "Nhân Gian Huấn", có đoạn đã viết về việc này như sau <span class="style2" style="color: red;">(4)</span>:<br />
<em>Kiến kỳ truyện viết: "Vong Tần giả, hồ dã "</em>.<em> Nhân phát tốt ngũ thập vạn, sử Mông công - Tương ông tử tướng, trúc tu thành, tây thuộc Lưu Sa, bắc kích Liêu thuỷ, đông kết Triều Tiên, Trung quốc nội quận vãn xa nhi hướng chi. Hựu lợi Việt chi tê giác - tượng xỉ -phỉ thuý - châu cơ, nãi sử uý Đồ Tuy (Nôm: Thư) phát tốt ngũ thập vạn, vi ngũ quân, nhất quân tái <strong>Đàm Thành</strong> chi lĩnh, nhất quân thủ <strong>Cửu Nghi</strong> chi tái, nhất quân xử (xứ<strong>) Phiên Ngu (Phiên Ngung)</strong> chi đô, nhất quân thủ <strong>Nam Dã</strong> chi giới, nhất quân kết <strong>Dư Can</strong> chi thuỷ, tam niên bất giải giáp trì nỗ. Sử Giám Lộc vô dĩ chuyển hướng, hựu dĩ tốt tạc cừ nhi thông lương đạo, dĩ dữ Việt nhân chiến, <strong>sát Tây Ẩu (Nôm: Âu) quân Dịch Hu Tống</strong>. Nhi Việt nhân giai nhập tùng bạc trung, dữ cầm thú xứ, mạc khẳng vi Tần lỗ. Tương trí kiệt tuấn dĩ vi tướng, nhi dạ công Tần nhân, đại phá chi, sát uý Đồ Tuy (Nôm: Thư), phục thi lưu huyết số thập vạn. </em><br />
Tạm dịch <span class="style2" style="color: red;">(5)</span>:<br />
...<br />
<em>Truyện xưa viết: "Nhà Tần vong, tại sao vậy". Nguyên nhân là sai Mông công (Mông Điềm) và Tương ông đưa 50 vạn quân xây trường thành. Phía tây thì chiếm Lưu Sa, phía bắc thì đánh Liêu, phía đông thì liên kết với Triều Tiên, các quận của Trung quốc phải kéo xe đi</em> <em>chinh chiến.</em><br />
<em>Lại ham những món lợi như sừng tê giác, ngà voi, ngọc phỉ thúy, trân châu, nên sai quan úy là Đồ Thư mang 50 vạn quân, chia làm 5 đạo đi xâm chiếm (Bách Việt). Một đạo đóng ở <strong>Đàm Thành</strong>, một đạo phòng thủ ở <strong>Cửu Nghi</strong> là chỗ hiểm yếu, một đạo đóng ở <strong>Phiên Ngung</strong> làm đô thành, một đạo đóng ở<strong>Nam Dã</strong> là nơi biên giới, một đạo đóng ỡ sông <strong>Dư Can</strong>. Ba năm quân không cởi giáp, lúc nào cũng phải mang theo cung nỏ. Sử Lộc <span class="style2" style="color: red;">(6)</span> không tìm được hướng (để tiến quân), mới tuyển lính đào kinh để chuyển binh lương đánh người (Bách) Việt, giết vua Tây Âu là Dịch Hu Tống. Vì vậy người (Bách) Việt vào rừng rậm sống chung cùng muông thú, không chịu để quân Tần bắt làm tù binh. Ho kén chọn ngưòi tài trí và kiệt tuấn làm tướng, cứ đến đêm tối tấn công quân Tần, đạt được chiến thắng lớn, giết quan úy Đồ Thư, quân Tần chết cả chục vạn.</em><br />
Địa danh và sự việc đã được sách Hoài Nam Tử nói qua, những điều này, người viết xin lần lượt trình bày qua những tham khảo, suy luận cùng những phỏng đoán của cá nhân trong phần sau.<br />
Trước khi tìm hiểu về những địa danh và sự kiện được nêu lên trong tài liệu này, người viết xin nói sơ lược về tiểu sử tác giả sách Hoài Nam Tử, hầu chúng ta có thể biết thêm về thời điểm lúc quyển sách này ra đời.<br />
Tác giả sách Hoài Nam Tử là Hoài Nam Vương Lưu An, ông là cháu của Hán Cao Tổ Lưu Bang (gọi Lưu Bang bằng ông), con của Lưu Trường, em họ (?) của Hán Cảnh Đế Lưu Khải (156 TCN – 141 TCN) và là chú họ (?) của Hán Vũ Đế Lưu Triệt (140 TCN – 87 TCN). Được phong làm Hoài Nam Vương ở vùng sông Hoài <span class="style2" style="color: red;">(7)</span> (tỉnh An Huy ngày nay). Ông sinh năm 179 TCN, ông tự sát năm 122 TCN (hay 123 TCN?) vì có ý định mưu phản Hán Vũ đế, nhưng sự việc bị tiết lộ. Lưu An là người đã dâng biểu can Hán Vũ đế về việc nhà Hán định đánh Mân Việt khi Triệu Văn Vương của nước Nam Việt là Triệu Hồ (con Trọng Thủy, cháu Triệu Đà) trình cho Hán Vũ đế biết việc Mân Việt mang quân đánh Nam Việt (135 TCN).<br />
Sách Hoài Nam Tử là bộ sách của Đạo gia, được viết bởi tám học giả ở vùng Hoài Nam gọi là Hoài Nam bát tiên, dưới sự chỉ đạo của Hoài Nam Vương Lưu An. <strong>Sách này được trình cho Hán Vũ Đế xem năm 139 TCN</strong>. Sách này ra đời trước cả bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên (145 TCN - 93 TCN, đây là bộ chính sử sớm nhất của Trung quốc, hoàn tất năm 97 TCN). Nhà Tần đặt Lĩnh Nam thành quận huyện năm 214 TCN, sách Hoài Nam Tử hoàn tất năm 139 TCN, được viết sau biến cố này 75 năm, tương đối khá ngắn so với chiều dài của lịch sử, nên người viết nhận thấy sự khả tín khá cao, hơn nữa có lẽ đây là sách duy nhất nói về việc này còn lưu truyền. Vì thế sự tìm hiểu về việc tiến quân của quân Tần được đặt căn bản theo đoạn văn đã trích dẫn ở trên của sách Hoài Nam Tử.<br />
Qua sử liệu, chúng ta biết quân Tần vượt Ngũ Lĩnh để xâm chiếm Lĩnh Nam. Câu hỏi được đặt ra là Ngũ Lĩnh và Lĩnh Nam ở đâu so với địa danh ngày nay.<strong></strong><br />
<strong>b. Ngũ Lĩnh và Lĩnh Nam</strong><br />
<div align="center">
<img height="409" src="http://www.bienkhoi.com/so-35/bando-1.jpg" width="624" /><br />
<em>Bản đồ số 1 - Ngũ Lĩnh (ngày nay là Nam Lĩnh)</em><br />
<img height="116" src="http://www.bienkhoi.com/so-35/giao-chi-8.gif" width="189" /><strong> </strong><br />
<img height="409" src="http://www.bienkhoi.com/so-35/bando-2.jpg" width="624" /><strong> </strong><br />
<em>Bản đồ số 2- Ngũ Lĩnh-chi tiết</em></div>
<div align="left">
<strong>Ngũ Lĩnh</strong><br />
Là rặng Nam Lĩnh ngày nay, gồm 5 rặng núi nằm kế nhau theo hướng đông bắc, từ phía tây qua đông theo thứ tự như sau:</div>
<blockquote>
<div align="left">
Việt Thành lĩnh (Yuechengling )<br />
Đô Bàng lĩnh (Dupangling )<br />
Minh Chử lĩnh (Mengzhuling )<br />
Kỵ Điền lĩnh (Qitianling )<br />
Đại Du (Dữu) lĩnh (Dayuling )</div>
</blockquote>
<div align="left">
Rặng Ngũ Lĩnh kéo dài từ phía bắc tỉnh Quảng Tây sang đến một phần phía bắc tỉnh Quảng Đông. Ngũ Lĩnh phân chia ranh giới các tỉnh Hồ Nam - Quảng Tây, Hồ Nam - Giang Tây - Quảng Đông, thành hai vùng địa lý khác biệt.<br />
Phía bắc Ngũ Lĩnh, tỉnh Hồ Nam có sông Tương theo hướng nam- bắc chảy vào hồ Động Đình và sông Dương Tử. Sông Cám (hay Cống giang) cũng theo hướng nam - bắc chảy vào hồ Bá Dương.<br />
Phía nam, ở tỉnh Quảng Tây có sông Li theo hướng bắc - nam chảy vào sông Chu. Quảng Đông có sông Bắc cũng theo hướng bắc – nam chảy vào sông Tây (Tây giang).<br />
Rặng Ngũ lĩnh không cao, trung bình từ 1000 tới 1500 mét (khoảng 3300 tới 5000 feet). Tuy nhiên rất hiểm trở và khó vượt qua bằng đường bộ.</div>
<div align="left">
<strong><u>Những quan ải tại Ngũ Lĩnh</u>: <u></u></strong><br />
Sử Ký, Nam Việt Úy Đà liệt truyện:<em> " (Nhâm) Ngao chết, Đà lập tức truyền hịch bảo các cửa quan Hoành Phố, Dương Sơn, Hoàng Khê rằng: Quân giặc sắp đến, phải chặn ngay đường, tụ tập quân sĩ để tự bảo vệ".</em></div>
<div align="left">
<strong>Hoành Phổ quan, </strong>là Mai quan ngày nay (Meiguan) <span class="style2" style="color: red;">(8)</span>. Đây là một cửa ải quan trọng bậc nhất trên rặng Ngũ Lĩnh từ Hoa hạ đến Lĩnh Nam. Ngày nay tại đây vẫn còn một thị xã nhỏ sát ranh giới Giang Tây và Quảng Đông mang tên này. Từ Mai quan tới thị xã Nam Hùng tỉnh Quảng Đông khoảng 30 km ( 19 dặm). Thời Tần có tên là Hoành Phổ quan<strong>, </strong>cửa quan này nằm trên Đại Du (Dữu) lĩnh là một trong Ngũ Lĩnh, rất hiểm trở khó qua lại. Thời Đường gọi là Tần quan. Năm 716, Tể tướng Trương Cửu Linh <span class="style2" style="color: red;">(9)</span> mở rộng thêm bằng cách đục đá xuyên qua núi bên dưới lối đi cũ để bớt độ dốc và lát gạch cho dễ qua lại. Phía bắc cửa ải có khắc hàng chữ "Nam Việt Hùng quan", phía nam có khắc hàng chữ "Lĩnh Nam Đệ Nhất quan".</div>
<div align="left">
<strong>Dương Sơn quan </strong><span class="style2" style="color: red;">(10)</span> ở phía đông nam Kỵ Điền lĩnh, gần Liên giang ( Lian jiang). Ngày nay thuộc huyện Dương Sơn (Yangshan), Thanh Viễn thị, góc tây bắc tỉnh Quảng Đông.</div>
<div align="left">
<strong>Hoàng Khê quan</strong> ở phía nam Kỵ Điền lĩnh, gần núi Hoạt Thạch, chỗ 3 con sông hợp lại là Bắc Giang (Beijiang), Liên giang ( Lianjiang) và Ống giang (Wengjiang) . Ngày nay thuộc huyện Anh Đức (Yingde), Thanh Viễn thị (Qingyuan), phía bắc đô thị Quảng Châu.<br />
Ngoài những ải trên được ghi lại trong Sử Ký, còn có <strong>Ly Thủy quan</strong> là chỗ Sử Lộc đào kinh Linh Cừ thông thủy đạo từ Tương giang nối với Ly giang để chuyển lương trong chiến dịch xâm chiếm Lĩnh Nam.</div>
<div align="left">
<strong>Lĩnh Nam.</strong><br />
<u>Địa thế</u>: Lĩnh Nam là vùng đất phía nam của rặng Ngũ Lĩnh. Tuỳ theo sự giải đoán của từng người hay nói chung là tùy theo quan niệm của từng dân tộc. Người Trung Quốc gọi vùng Lĩnh Nam là đất của người Bách Việt gồm Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến và phía nam của Chiết Giang (vùng đất của các nước cổ thời là Mân Việt và Đông Việt). Người Việt Nam gọi Lĩnh Nam là vùng đất gồm Quảng Tây, Quảng Đông và Cổ Việt là Bắc Việt ngày nay, vì trong cổ sử của nước Việt nói về cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng như sau: ĐVSKTT:" <em>Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:... Cho nên Trưng Nữ Vương tuy đánh lấy được đất Lĩnh Nam, nhưng không giữ được nơi hiểm yếu ở Ngũ Lĩnh, rốt cuộc đến bại vong</em>" cũng như truyện "Lĩnh Nam Chích Quái"của Trần Thế Pháp. Trong khi đó học giả Tây Phương <span class="style2" style="color: red;">(11)</span> nói Lĩnh Nam chỉ gồm có hai tỉnh là Quảng Tây và Quảng Đông. Tuy nhiên, nếu hiểu một cách phổ quát thì Lĩnh Nam là vùng đất phía nam của Ngũ Lĩnh, gồm Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến, đảo Hải nam, phía nam Chiết Giang và Bắc Việt Nam ngày nay. Vùng đất có các sắc dân không thuộc Hán tộc, khác hẳn về ngôn ngữ, phong tục và văn hoá với dân vùng Hoa Bắc và Hoa Nam thời cổ.</div>
<div align="left">
Phía tây Lĩnh Nam là vùng cao nguyên của hai tỉnh Vân Nam và Quý Châu, cũng là phía tây của tỉnh Quảng Tây với rặng Ô Mông sơn (Wumeng shan) và Lục Chiếu sơn (Liuzhao shan (sát với biên giới Việt Nam- Vân Nam và Quảng Tây). Đây là những rặng núi tương đối khá cao để có thể phân biệt về ranh giới thời cổ. Phía đông bắc Lĩnh Nam là các rặng núi Vũ Di sơn, Tải Vân Sơn và Liên Hoa Sơn, phân chia hai vùng Lĩnh Nam và Dương Việt (huyện Mân Trung thời Tần). Phía đông và phía nam của Lĩnh Nam giáp biển Nam Hải.</div>
<div align="left">
Vùng Lĩnh Nam có sông lớn thứ 3 của Trung Quốc là Tây Giang sau Hoàng Hà và Dương Tử (Trường giang), Đây là thủy đạo chính của vùng Lĩnh Nam. Sông này tùy từng đoạn đã được đặt bằng những tên khác nhau. Các đoạn sông này nối tiếp với nhau từ tây qua đông theo thứ tự sau: Nam Bàn giang (tên cổ thời là sông Tường Kha) - Hồng Thủy hà, Tây giang và Chu giang là đoạn nối với biển Nam Hải.</div>
<div align="left">
Sông Tây giang có những chi lưu chính ở phía bắc như Bắc Bàn giang, Liêu giang, Li giang, Bắc giang và Đông giang. Những chi lưu ở phía nam như Hữu giang và Tả giang (phát nguyện từ bắc Việt Nam) hợp lại là Uất giang, chảy vào Tây giang.</div>
<div align="left">
<u>Khí hậu</u> Lĩnh Nam khác hẳn với khí hậu Hoa hạ. Phía bắc Ngũ Lĩnh lạnh và khô, nhiều khi mùa đông có tuyết, nhưng phía nam Ngũ Lĩnh – Lĩnh Nam- thì ấm áp quanh năm, đây là vùng khí hậu nhiệt đới. Nhiệt độ thay đổi từ 10°C (tháng 11, 12, 1, 2) đến 30°C (tháng 5, 6, 7, 8). Thời gian trồng cấy từ 250 đến 320 ngày trong một năm ( nhiệt độ tối thiểu để có thể cấy lúa là 10°C). Lĩnh Nam có nhiều mưa, tháng 5, 6, 7, 8 là mùa mưa, cao điểm là tháng 6, vũ lượng lên tới 25cm (10 inches). Vũ lượng cho cả năm khá cao, 170 cm (67 inches) tại Quảng Châu, 200 cm (80 inches) tại Hồng Kông, 180 cm (71 inches) tại Hà Nội.</div>
<div align="left">
<u>Lịch sử</u>: Trước khi quân Tần theo lệnh của Tần Thủy Hoàng đi mở rộng đế quốc nhà Tần về phía nam, Lĩnh Nam không có những liên hệ nào đáng kể với vùng Hoa Hạ, ngoại trừ những việc giao thương rất lẻ tẻ qua những vùng có thể đi bằng đường bộ <span class="style2" style="color: red;">(12)</span>. Sự qua lại cực kỳ chật vật vì phải vượt qua những đường đèo hiểm trở tại rặng Ngũ Lĩnh. Văn hoá của Trung Quốc chưa xâm nhập vào vùng Lĩnh Nam. Về phía đông bắc, sau khi nước Sở và Tề xâu xé nước Việt của Câu Tiễn<span class="style2" style="color: red;"> (13)</span> năm 333 TCN, hậu duệ của vua Việt và một số dân Việt chạy về phía nam là hai tỉnh Chiết Giang và Phúc Kiến. Tại đây hai nước nhỏ được lập nên là Đông Việt và Mân Việt, vùng này được gọi chung là Dương Việt. Phía tây bắc của Lĩnh Nam có nước Dạ Lang thuộc tỉnh Quý Châu, phía tây Lĩnh Nam có nước Điền ở vùng hồ Điền Trì sát đô thị Côn Minh, tỉnh Vân Nam ngày nay. Mới đây các nhà khảo cổ đã khai quật được 118 di chỉ của nước Điền, từ những di chỉ này, chúng ta biết dân nước Điền rất điêu luyện về cách đúc đồng thau (bronze) <span class="style2" style="color: red;">(14)</span> lúc cổ thời. Tại trung tâm của Lĩnh Nam có nước Tây Âu là một nước khá lớn, nước này đã chống trả lại đội quân nam chinh của Tần Thủy Hoàng một cách kịch liệt. Phía cực nam của Ngũ Lĩnh là nước Âu Lạc tức là Giao Chỉ hay nước Việt Nam thời cổ.</div>
<div align="left">
<u>Các sắc tộc:</u> Lĩnh Nam (Quảng Đông, Quảng Tây và cổ Việt) gồm nhiều sắc tộc, người Hán gọi chung là người Bách Việt, gồm nhiều bộ tộc đã định cư ở đây từ lâu đời. Cổ thời, trước khi nhà Tần mang quân xâm chiếm, Lĩnh Nam có hai sắc tộc chính thuộc chủng tộc Thái là Tráng <span class="style2" style="color: red;">(15)</span> (Zhuang) ở vùng Quảng Tây và Quảng Đông, Lê <span class="style2" style="color: red;">(16)</span> (Li) ở vùng bán đảo Lôi Châu (Leizhou) và ven đảo Hải Nam <span class="style2" style="color: red;">(17)</span>. Xa về phía nam là chủng tộc Lạc Việt tại vùng Âu Lạc. Sau này lại có các sắc tộc thiểu số khác di dân đến đây sinh sống như người H’Mông<span class="style2" style="color: red;">(18)</span>, người Dư <span class="style2" style="color: red;">(19)</span>, Di tộc (Lô Lô) <span class="style2" style="color: red;">(20)</span>, người Dao <span class="style2" style="color: red;">(21)</span> v.v…</div>
<div align="left">
<u>Dân số Lĩnh Nam</u>:<br />
Theo như Hán Thư, Điạ Lý chí của Ban Cố thì các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, cộng lại được 215,448 nhà, và số nhân khẩu là 1,272,390 <span class="style2" style="color: red;">(22)</span> người. Đây là dân số Lĩnh Nam theo thống kê thời Tiền Hán (206 TCN – 9 ).<br />
Nước cổ Việt (Âu Lạc) gồm ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam tổng cộng là 143643 nhà và 981,835 người.<br />
Vùng Quảng Tây và Quảng Đông gồm 4 quận Nam Hải, Hợp Phố, Thương Ngô và Uất Lâm là 71,805 nhà và 390,555 người.</div>
<div align="left">
<strong>Tỷ lệ dân số cổ Việt nhiều hơn 2.5 lần so với dân số hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây </strong><br />
Tuy nhiên, không phải tất cả dân chúng tham gia kiểm kê, nên người viết <u>phỏng đoán</u> là dân số Lĩnh Nam ở đầu thế kỷ thứ nhất có khoảng 2 triệu người. Ngược lại 2 thế kỷ, trước khi nhà Tần sang xâm chiếm, người viết <u>phỏng đoán</u> dân số tại Lĩnh Nam có khoảng 1.5 triệu người: 500 ngàn tại vùng Quảng Tây và Quảng Đông <span class="style2" style="color: red;">(23)</span>, 1 triệu người tại cổ Việt.</div>
<div align="left">
<strong>c. Những địa điểm đóng quân</strong><br />
Sau vài nét đại cương về Ngũ Lĩnh và Lĩnh Nam, người viết xin trình bày từng địa điểm đồn trú của quân Tần, mà sách Hoài Nam Tử đã viết. Những vị trí này được truy tầm qua các tài liệu cổ của Trung Quốc như: Sử Ký, (Tiền) Hán thư, Hậu Hán thư, Tấn thư, Thủy Kinh chú, Thủy Kinh chú sớ, cùng với bản đồ của Trung Quốc và các phương tiện truyền thông tinh vi ngày nay như "Internet và ""Google Earth". Sau đó sẽ <strong>phỏng đoán</strong> đường hành quân đặt căn bản qua các tài liệu trên, để chúng ta có một khái niệm tổng quát về chiến dịch xâm lăng Bách Việt của quân Tần.</div>
<div align="left">
<strong><u>Đàm Thành</u></strong><br />
Theo <strong>Hậu Hán thư</strong> của Phạm Việp, "Chí đệ thập nhị", "Quận quốc tứ" <span class="style2" style="color: red;">(24)</span> thì Đàm Thành là một huyện của quận Vũ Lăng thời Hán (quận <strong>Kiềm Trung</strong>thời Tần). Thời Hậu Hán, Hán Quang Vũ chia quận này ra làm 6 huyện. Đàm Thành là một trong 6 huyện, tọa lạc tại phía tây nam của quận Vũ Lăng.</div>
<div align="left">
Sách <strong>Thủy Kinh chú</strong> (bản dịch trong "Thủy Kinh Chú Sớ" của ông Nguyễn Bá Mão, quyển 37, trang 483): "<em>Sông Ngân Thủy ra từ khe Nguyên Thủy ở biên giới phía bắc huyện <u>Tầm Thành </u><span class="style2" style="color: red;">(25)</span> (nv: <u>Đàm Thành</u>, xin coi ghi chú) quận Vũ Lăng</em>".</div>
<div align="left">
Quận Vũ Lăng, theo <strong>Hán Thư </strong>của Ban Cố, "Địa lý chí", quyển 28 hạ <span class="style2" style="color: red;">(26)</span>, thì Vũ Lăng là một trong các quận của nước Sở ngày trước.</div>
<div align="left">
Theo như bản đồ ngày nay thì quận lỵ của Vũ Lăng là Hoài Hoá thị ở phía tây tỉnh Hồ Nam của Trung Quốc, phía nam rặng núi Vũ Lăng. Hoài Hoá thị có sông khá lớn là Nguyên giang <span class="style2" style="color: red;">(27)</span> chảy qua. Sông này bắt nguồn từ ranh giới Quý Châu, Quảng Tây và Hồ Nam, chảy về hướng đông-bắc đổ nước vào vùng hồ Động Đình.</div>
<div align="left">
<strong>Đàm Thành toạ lạc tại Tịnh huyện</strong> (Tịnh châu Miêu tộc đồng tộc tự trị huyện), thuộc Hoài Hóa thị (Huaihua), phía tây nam tỉnh Hồ Nam, là một trong 12 thành của quận Vũ Lăng thời Hán (quận Kiềm Trung thời Tần).<br />
Người viết phỏng đoán thành này nằm trên bờ sông Nguyên, là thị trấn Tịnh Châu (Jing Zhou) của tỉnh Hồ Nam ngày nay. Vì đây là một vùng phẳng duy nhất để có thể đủ chỗ cho 100 ngàn quân trú đóng và tiện việc vận chuyển quân lương bằng đường thủy.</div>
<div align="center">
<br />
<img height="409" src="http://www.bienkhoi.com/so-35/bando-3.jpg" width="624" /></div>
<div align="center">
<br />
<em>Bản đồ số 3 - 3 trong 5 địa điểm đồn trú của quân Tần: <strong>Đàm Thành, Cửu Nghi, Nam Dã</strong></em></div>
<div align="left">
<strong><u>Cửu Nghi</u></strong><strong></strong></div>
<div align="left">
Theo Hậu Hán thư của Phạm Việp, "Chí đệ thập nhị", "Quận quốc tứ" <span class="style2" style="color: red;">(28)</span> thì Cửu Nghi là một vùng núi ở quận Linh Lăng.</div>
<div align="left">
Sách Thủy Kinh chú (bản dịch trong "Thủy Kinh Chú Sớ" của ông Nguyễn Bá Mão, quyển 38, trang 519) <span class="style2" style="color: red;">(29)</span>: “… <em>Lại chảy về phía đông bắc, qua phía tây huyện Tuyền Lăng.Sông Doanh Thủy ra từ núi Lưu Sơn ở phía nam huyện Linh Đạo quận Doang Dương, chảy về phía tây đi qua dưới <strong>núi Cửu Nghi</strong>, chân núi uốn khúc khắp đồng Thương Ngô, ngọn núi mọc cao vút trong khoảng mấy quận. Núi bày ra chín ngọn, một ngọn dẫn một con suối, núi khe hiểm trở, núi tuy khác nhau, nhưng hình thế giống nhau, làm cho du khách nghi hoặc, cho nên gọi là <strong>núi Cửu Nghi </strong></em>”.</div>
<div align="left">
<strong>Cửu Nghi Sơn:</strong> địa danh này ngày nay vẫn còn. Tọa lạc Vĩnh Châu thị (Yongzhou), cách huyện Ninh Viễn (Ningyuan) khoảng 15 km (chừng 10 miles) về phía nam, nằm gần cực nam tỉnh Hồ Nam, một trong những núi thuộc Minh Chử lĩnh (sát ranh giới Hồ Nam - Quảng Đông). Đỉnh cao nhất là núi Phấn Cơ (Fenji -1959m). Phía bắc chân núi này vẫn còn một thị xã nhỏ có tên là Cửu Nghi.<br />
Phía đông núi Cửu Nghi có sông Xuân Lăng, sông này thông với Tương giang ở phía bắc tại thị trấn Hành Dương (Hengyang-tỉnh lớn thứ nhì của tỉnh Hồ Nam sau Trường Sa).<br />
Bên bờ sông Xuân Lăng ngày nay có thị trấn Lam Sơn (Lanshan) tương đối khá phẳng Người viết phỏng đoán là một đạo quân Tần đã đóng ở đây để tìm cách vượt Ngũ Lĩnh.</div>
<div align="left">
<strong><u>Phiên Ngung</u></strong></div>
<div align="center">
<br />
<img height="409" src="http://www.bienkhoi.com/so-35/bando-4.jpg" width="624" /></div>
<div align="center">
<em>Bản đồ số 4 - 1 trong 5 địa điểm đồn trú của quân Tần: <strong>Phiên Ngung</strong></em></div>
<div align="left">
Điạ danh này đã được nói tới trong Sử Ký của Tư Mã Thiên - "<em>NamViệt Úy Đà liệt truyện</em>" ba lần. Đây là kinh đô của nưóc Nam Việt thời Triệu Đà. Khi quân nhà Hán mang quân sang đánh Nam Việt (thời Triệu Ai vương là vua chót của nhà Triệu -112 TCN). Sử Ký, bản dịch của Nhữ Thành : " <em>Sau quân Việt mở thẳng đường, mang lương thực người Việt đem quân đánh bọn Thiên Thu, diệt được họ cách <strong>Phiên Ngung</strong> bốn mươi dặm,...Năm thứ năm niên hiệu Nguyễn Đỉnh (năm 112 trước Công nguyên.....đưa quân từ đất Dạ Lang xuống đường sông Tường Kha. Các quân ấy đều gặp nhau ở <strong>Phiên Ngung</strong>....</em>.<em>Năm thứ sáu niên hiệu Nguyễn Đỉnh (năm 111 trước Công nguyên), mùa đông..... Phục Ba cùng quân của Lâu thuyền họp lại mới có được hơn nghìn người, bèn cùng tiến. Quân của Lâu thuyền đi trước đến <strong>Phiên Ngung</strong>, Kiến Đức cùng Gia đều giữ thành.</em><br />
Tuy nhiên, trong các cổ sử của Trung Quốc, nếu phiên dịch ra Hán Nôm thì đều gọi là Phiên Ngu. Như đã trích dẫn trong sách Sử Ký, quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận được thành lập thời Tần. Sau khi Hán Vũ đế chiếm Nam Việt (111 TCN), đặt Nam Hải là một quận của Giao châu.</div>
<div align="left">
<strong>Hán thư</strong> của Ban Cố viết: Nam Hải là một trong 7 quận thời Tiền Hán <span class="style2" style="color: red;">(30)</span> thuộc Giao châu, đất của Triệu Đà, <strong>Phiên Ngung là thủ đô</strong>. Giao châu gồm các quận: Thương Ngô - Uất lâm - Hợp Phố - Giao Chỉ - Cửu Chân - Nam Hải - Nhật Nam. Nam Hải là đất của người (Bách)Việt. Sau đó (cũng năm 111 TCN) đã đặt thêm hai quận là Đam Nhĩ và Chu Nhai <span class="style2" style="color: red;">(31)</span> ở đảo Hải Nam.</div>
<div align="left">
<strong>Hậu Hán thư</strong> của Phạm Việp viết là <strong>Phiên Ngung</strong> thuộc quận Nam Hải <span class="style2" style="color: red;">(32)</span>, là một trong những quận thuộc Giao châu thời Hán</div>
<div align="left">
Theo <strong>Tấn thư</strong>, Phiên Ngung (Ngu) là một trong 6 huyện của quận Nam Hải. Quận Nam Hải gồm có <strong>Phiên Ngung</strong>, Tứ Hội, Tăng Thành, Bác La, <strong>Long Xuyên</strong> và Bình Di <span class="style2" style="color: red;">(33)</span>.</div>
<div align="left">
Qua những trích dẫn trên, chúng ta biết là Phiên Ngung nằm ở thị trấn Quảng Châu thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay, tại đây đã tìm được mộ phần của Nam Việt Văn Vương Triệu Hồ (137 TCN -125 TCN).</div>
<div align="left">
Phiên Ngung (Ngu) ngày nay vẫn còn tên và là một chi khu trong đô thị Quảng Châu. Nếu tra cứu trong bản đồ thì Phiên Ngung ( Panyu) là một trong 12 đơn vị hành chính của tỉnh Quảng Châu, phía đông nam, kế cận với xa lộ vòng quanh đô thị này.</div>
<div align="left">
Một trong 5 đạo quân Tần (mà người viết phỏng đoán là dưới sự lãnh đạo của <strong>Nhâm Ngao</strong>) đã vượt Ngũ Lĩnh đến đây chiếm đóng. Đạo quân không gặp sức kháng cự nào đáng kể của dân Bách Việt.</div>
<div align="left">
<strong><u>Nam</u></strong><strong><u> Dã</u></strong><br />
<strong>Hậu Hán thư</strong> của Phạm Việp, "Chí đệ thập nhị", "Quận quốc tứ" viết <span class="style2" style="color: red;">(34)</span>: <strong>Nam Dã</strong> là một huyện của quận Dự Chương. Huyện này được đặt ra từ thời Cao đế nhà Tiền Hán (Hán Cao Tổ Lưu Bang, 206 TCN - 195 TCN).<br />
Quận Dự Chương có những huyện : Nam Xương, Kiến Thành, Tân can, Nghi Xuân, Lư Lăng, Cám (hay Cống), Vu Đô, <strong>Nam Dã</strong>, Nam Thành, Bá Dương, Lịch Lăng, <strong>Dư Hãn</strong>, Bành Trạch, Bành Lãi, Thạch Dương, Lâm Nhữ, Kiến Xương, Sài Tang, Ngải, Hải Hôn hầu quốc, Bình Đô hầu quốc.</div>
<div align="left">
<strong>Tấn thư</strong> viết <strong>Nam Dã</strong> là một huyện của quận Lư Lăng. Quận này do nhà Ngô dựng lên thời Tam Quốc <span class="style2" style="color: red;">(35)</span> (220 - 280)</div>
<div align="left">
Sách <strong>Thủy Kinh chú </strong>(bản dịch trong "Thủy Kinh Chú Sớ" của ông Nguyễn Bá Mão, quyển 39, trang 655) <span class="style2" style="color: red;">(36)</span>: " <em>Sông Cống (Cám ) Thũy ra từ phía tây huyện <strong>Nam Dã</strong> quận Dự Chương, chảy về phía bắc qua phía đông huyện Cống.</em></div>
<div align="left">
<em>Ban Cố gọi là huyện <strong>Nam</strong><strong> D</strong>ã, nơi sông Bành Thủy chảy ra, chảy vào phía đông vào sông Hồ Hán.....Lưu Trừng Chi nói:... Sông Dự Chương dẫn nguồn chảy về phía đông bắc, đi qua phía bắc huyện <strong>Nam Dã</strong>".</em><br />
Sông Dự Chương mà Ban Cố viết là Cám (Cống) giang ngày nay.</div>
<div align="left">
Huyện Nam Dã quận Dự Chương thời Tần ở về phía cực nam tỉnh Giang Tây, thuộc Tráng (Cám) Châu thị ( Ganzhou shi), thị trấn Tráng (Cám) Châu, phía đông bắc của Mai quan (thời Tần là Hoành Phổ quan) thuộc Dại Du lĩnh, tọa lạc trên bờ đông nam của Cám (Cống) giang. Sông này là thủy lộ chính theo hướng bắc-nam của tỉnh Giang Tây.</div>
<div align="left">
Một đạo quân khác đến đồn trú tại Nam Dã, sau khi đạo quân trước đã tiến vào Lĩnh Nam và chiếm đóng Phiên Ngung.</div>
<div align="left">
<strong><u>Dư Can</u></strong><strong> <u></u></strong></div>
<div align="center">
<br />
<img height="409" src="http://www.bienkhoi.com/so-35/bando-5.jpg" width="624" /><strong> </strong></div>
<div align="center">
<em>Bản đồ số 5 - 1 trong 5 địa điểm đồn trú của quân Tần: <strong>Dư Can</strong></em><strong></strong></div>
<div align="left">
Trước khi tìm hiểu về vị trí của địa danh này, người viết xin trình bày một vấn đề về từ ngữ có liên quan đến chữ "<em>can</em>", vì chữ này đã gây trở ngại rất nhiều cho người viết trong việc tra cứu.</div>
<div align="left">
<strong>餘</strong><strong>干</strong><strong> </strong>phiên dịch là<strong> </strong>"Dư <u>Can</u>", bản sao lại là chữ Hán phồn thể, nên chỉ có thể dịch là "Dư <u>Can</u>". Nếu chữ <strong>干</strong> là giản thể thì có thể dịch là "Dư Can" hay "Dư Hãn". Nếu chữ <strong>干</strong> thêm bộ "thủy" thành chữ <strong>汗</strong><strong> </strong>thì có thể phiên dịch chữ Hán phồn thể là "can" hay "hãn"</div>
<div align="left">
Các bộ cổ sử như Hậu Hán thư, Tấn thư viết là : <strong>餘</strong><strong> </strong><strong>汗</strong><strong>,</strong> có thể phiên dịch là "Dư Can" hay "Dư Hãn". Dù cổ sử được viết như thế, nhưng người viết không thể phỏng đoán một cách vô căn cứ là sách Hoài Nam Tử viết chữ "can" thiếu bộ "thủy", để có thể đọc là "hãn" cho phù hợp với cổ sử. Trở ngại này do khả năng Hán học của người viết quá thô thiển.</div>
<div align="left">
Sự tra cứu tưởng như phải ngưng ở đây vì chữ "<em>can</em>", vì người viết nghi ngờ chữ "can" có thể phiên dịch là "can, hãn", vì nghĩ là đã bị ghi sai khi chuyển lên ấn bản điện tử. May mắn thay! Sự việc đã không như thế, sách "Thủy Kinh Chú sớ" của hai học giả Dương Thủ Kính và Hùng Hội Trinh <span class="style2" style="color: red;">(37)</span> đã giải thích về chữ “can” và “hãn” khá rõ ràng như sau:<br />
Bản dịch : Nguyễn Bá Mão dịch từ "<strong>Thủy Kinh Chú Sớ</strong>", (quyển 33 đến quyển 40).</div>
<div align="left">
Trang 684: "<strong><em>Sông Cống Thủy lại chảy về phía bắc, đi qua huyện Nghiêu Dương </em></strong><em><span class="style2" style="color: red;">(38)</span>, Thủ Kính chú: thời Hán, huyện thuộc quận Dự Chương, thời Hậu Hán y theo, thời Ngô thuộc quận Bà Dương, thời Tấn y theo, thời Tống bớt. Huyện ở phía tây bắc huyện Bà Dương ngày nay 120 dặm<span class="style2" style="color: red;">(39)</span>, <strong>là huyện Dự Chương thời Vương Mãng. Có sông Dư Thủy chảy vào. Sông Dư Thủy ra về phía đông ở huyện Dư Hãn, thời Vương Mãng gọi là Trị Can. Sông Dư Thủy chảy về phía bắc đến huyện Nghiêu Dương chảy vào sông Cống Thủy.</strong> Thủ Kính chú: "Hán chí", "Tấn chí" viết chữ "hãn" là "mồ hôi", "Tống chí" và "Tề chí" viết chữ "can" là "liên can". <u>Thời Hán, huyện Dư Hãn thuộc quận Dự Chương,</u> thời Hậu Hán y theo, thời Ngô thuộc là quận Bà Dương, các thời Tấn, Tống, Tề, Lương y theo. <u>Huyện ở phía đông bắc huyện Dư Can ngày nay</u></em>".<br />
Vậy nếu theo như giải thích của học giả Dương Thủ Kính thì chữ "Dư Hãn" trong "Hán Chí" (Hậu Hán thư, Chí) và "Tấn chí" (Tấn thư, Chí) cũng là chữ "Dư Can" như trong sách Hoài Nam Tử, nhưng đã bị thay đổi theo thời gian. Vậy cũng có thể hiểu <strong>"Dư Can" thời Tần cũng là "Dư Hãn" thời Hán</strong>; như đã viết trong sách Hoài Nam Tử.</div>
<div align="left">
<strong>Hậu Hán thư</strong> của Phạm Việp, "Chí đệ thập nhị", "Quận quốc tứ" viết Dư Hãn là một huyện của quân Dự Chương (xin đọc trong trích dẫn nói về huyện Nam Dã).</div>
<div align="left">
<strong>Tấn Thư</strong> viết Dư Hãn là một huyện của quận Bá (Bà) Dương (Poyang) thời Ngô <span class="style2" style="color: red;">(40)</span><br />
Qua những trích dẫn trên, ta có thể biết được là “Dư Can” trong sách Hoài Nam Tử tọa lại tại huyện Dư Can tỉnh Giang Tây ngày nay. Huyện lỵ là thị xã Dư Can ở sát phía bắc của sông Tín (Xin jiang ).</div>
<div align="left">
<strong>Dư Can thủy</strong><br />
Địa danh Dư Can đã được biết qua dẫn chứng trên, tuy nhiên vị trí sông Dư Can vẫn chưa biết rõ. Qua câu phiên dịch sách “Thủy Kinh Chú sớ” : “<em>Sông Dư Thủy ra về phía đông ở huyện Dư Hãn” (Thuỷ đông xuất Dư Hãn huyện). </em>Ta có thể biết rằng sông Dư Thủy nói ở đây là sông Dư Hãn, cũng là Tín giang (Xin jiang ) ngày nay. Sông này bắt nguồn từ rặng Vũ Di sơn (Wuyi shan) chảy về phía tây, hợp với một nhánh của sông Cám đổ vào hệ thống sông ngòi phức tạp quanh vùng hồ Bá Dương.<br />
Một đạo quân Tần đã dùng thủy đạo đến đóng tại thượng lưu Dư Hãn thủy (Tín giang), gần ranh giới phía đông bắc tỉnh Giang Tây và tây bắc tỉnh Phúc Kiến, để chuẩn bị vượt Vũ Di Sơn tiến vào Mân Việt. Người viết phỏng đoán quân Tần đã đóng gần thị xã Ưng Đàm ( Yingtan) ngày nay, vì tại đây có đường xe lửa cũng như xa lộ băng qua Vũ Di Sơn tới Nam Bình (Nanping) và Phúc Châu ( Fuzhou) tỉnh Phúc Kiến (Mân Việt thời Tần) là hai thị trấn lớn. Điều này ám chỉ là ngày xưa có thể có đường bộ băng qua vùng núi này. Hơn nữa khi vừa băng qua Vũ Di sơn là có sông Phú Đồn ( nối với sông Mân. Đây là thủy lộ thuận tiện nối Nam Bình với Phú Châu).<br />
Vậy là chúng ta đã biết được 5 địa điểm đóng quân của 500 ngàn quân Tần trong chiến dịch xâm lăng Bách Việt. Những địa điểm này được ghi lại trong bản đồ đính kèm dưới đây:</div>
<div align="center">
<br />
<img height="378" src="http://www.bienkhoi.com/so-35/bando-6.jpg" width="576" /><br />
<em>Bản đồ số 6 - 5 địa điểm đồn trú của quân Tần (t</em><em>ổng quát)</em></div>
<div align="center">
<br />
<img height="378" src="http://www.bienkhoi.com/so-35/bando-7.jpg" width="576" /><strong> </strong></div>
<div align="center">
<em>Bản đồ số 7 - 5 địa điểm đồn trú của quân Tần</em></div>
<hr />
<div align="center">
<br /></div>
<div>
<div id="ftn1">
(1) Phiên âm Hán Nôm: “Tam thập tam niên , phát chư thường bô vong nhân, chuế tế, cổ (giả) nhân lược thủ Lục Lương địa , vi Quế Lâm,Tượng quận, Nam Hải , dĩ thích khiển thú”.</div>
<div id="ftn2">
(2)" 209 +(13-1) = 221 TCN" : năm thứ 1là 209 TCN, đếm thêm 12 (thứ 13) là 221 TCN</div>
<div id="ftn3">
(3) Độc giả có thể sao lại nguyên bản bằng chữ Hán tại: <a href="http://www.geocities.com/fengshui_clasicos/HuaiNanZi.html" style="color: #000099; text-decoration: none;">http://www.geocities.com/fengshui_clasicos/HuaiNanZi.html</a></div>
<div id="ftn4">
(4) Nguyên bản:<br />
<img height="140" src="http://www.bienkhoi.com/so-35/chu-han.jpg" width="613" /></div>
<div id="ftn5">
(5) Đương nhiên là người viết có thể có những thiếu sót và sai lầm trong đoạn phiên dịch này, xin các bậc tinh thông Hán học chỉ bảo.</div>
<div id="ftn6">
(6) Người viết dùng tên Sử Lộc như trong sách "Việt Sử Toàn Thư ", của sử gia Phạm Văn Sơn, trang 56</div>
<div id="ftn7">
(7) Lưu An được phong Hoài Nam Vương (164BC) . Ông không nhập bọn theo "loạn 7 nước năm 154 TCN" thời Hán Cảnh Đế, nên được triệu về Trường An để tham chính . Nguồn: Hán Thư của Ban Cố quyển 44, " <em>Hoài Nam Hành Sơn Tế Bắc vương liệt truyện</em>"</div>
<div id="ftn8">
(8) Tham khảo từ sách "Tigers, Rice, Silk & Silt" của Robert B. Marks, trang 21-24, và trong <a href="http://en.wikipedia.org/wiki/Mei_Pass" style="color: #000099; text-decoration: none;">http://en.wikipedia.org/wiki/Mei_Pass</a></div>
<div id="ftn9">
(9) Trương Cửu Linh <strong>(</strong><strong>Zhang Jiuling </strong>678-740, thời Đường Huyền Tông 712-756). Ông này quê ở Thiều Quan (Shaoguan), phiá tây nam Mai quan, nên hăng hái mở đường thông thương giũa Hoa Hạ và Lĩnh nam</div>
<div id="ftn10">
(10)Sử Ký: Tam gia chú<br />
<em>Dương Sơn, Linh Tác ẩn diêu thị án </em><em>:Địa Lý chí vân Yết Dương hữu Dương Sơn huyện . Kim thử huyện thượng lưu bách dư lý hữu <strong>Kỵ Điền lĩnh </strong>, đương thị Dương Sơn quan . </em></div>
<div id="ftn11">
(11) Robert B. Marks: "<em>Tigers, Rice, Silk & Silt- Environment and Economy in Late Imperial South China</em>", Cambridge University Press, 1998</div>
<div id="ftn12">
(12) Hidden Trade Routes of The South : http://www.uglychinese.org/vietnamese.htm</div>
<div id="ftn13">
(13)Lúc này vua nước Việt là Việt Vương Vô Cương 337 TCN-333 TCN</div>
<div id="ftn14">
(14) Độc giả có thể xem những di chỉ này tại: http://news.gov.hk/en/citylife/041109/html/041109en20004.htm#</div>
<div id="ftn15">
(15) Ngày nay, Quảng Tây là Tráng tộc tự trị khu (Guangxi Zhuang Autonomous Region). Tổng số dân tộc Tráng khoảng 18 triệu người.</div>
<div id="ftn16">
(16) Lê tộc ngày nay có khoảng 1.3 triệu người, hầu hết định cư tại đảo Hải nam</div>
<div id="ftn17">
(17) Robert B. Marks: "<em>Tigers, Rice, Silk & Silt- Environment and Economy in Late Imperial South China</em>", Cambridge University Press, 1998, trang 54.</div>
<div id="ftn18">
(18) H’Mong ( Miao), tên cũ để gọi dân tộc thời xưa là Miêu tộc, tiếng Việt gọi là người Mèo. Đây là một sắc tộc rất lớn, dân số lên tới 7.5 triệu người. Dân tộc H’Mông định cư tại các tỉnh của Trung Quốc như Quý Châu, Quảng Tây, Vân Nam, Hồ Nam, Tứ Xuyên, Hải Nam. Tại Việt Nam có khoảng có khoảng 800 ngàn người. Tại Hoa Kỳ có khoảng 275 ngàn người.</div>
<div id="ftn19">
(19) Dư tộc (She) khoảng trên 600 ngàn người, định cư tại các tỉnh Phúc Kiến, Chiết Giang, Giang Tây và Quảng Đông</div>
<div id="ftn20">
(20) Di tộc ( Yi ) tiếng Việt gọi sắc tộc này là Lô Lô. Đây là sắc tộc lớn khoảng 6.5 triệu người, định cư tại các tỉnh Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây của Trung Quốc. Việt Nam có khoảng hơn 3 ngàn người Lô Lô tại các tỉnh Hà Giang, Lào Cai và Cao Bằng.</div>
<div id="ftn21">
(21) Người Dao (Yao) khoảng tr ên 2 triệu người, định cư tại các tỉnh Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông của Trung Quốc. Vi ệt Nam có khoảng nửa triệu người Dao.</div>
<div id="ftn22">
(22) Quận Nam Hải: 19613 nhà, 94253 người. Quận Uất Lâm: 12415 nhà, 71162 người. Quận Thương Ngô: 24379 nhà, 146160 người. Quận Hợp Phố: 15398 nhà, 78980 người. Quận Giao Chỉ: 92440 nhà, 746237 người. Quận Cửu Chân: 35743 nhà, 166113 người. Quận Nhật Nam: 15460 nhà, 69458 người .</div>
<div id="ftn23">
(23) Theo tác giả Robert B. Marks: "<em>Tigers, Rice, Silk & Silt- Environment and Economy in Late Imperial South China</em>", Cambridge University Press, 1998, trang 55, Lĩnh Nam gồm Quảng Đông và Quảng Tây (năm 206 TCN đến 200 TCN) có khoảng 72,000 nhà và từ 350,000 tới 400,000 người</div>
<div id="ftn24">
(24) Hậu Hán thư của Phạm Việp, "Chí đệ thập nhị", phiên dịch Hán Nôm: "<em>Vũ Lăng quận Tần Chiêu Vương trí, danh Kiềm Trung quận, Cao Đế ngũ niên cánh danh. Lạc Dương nam nhị thiên nhất bách lý. </em><em>T</em><em>hập nhị thành, hộ tứ vạn lục thiên lục bách thất thập nhị (46672), khẩu nhị thập ngũ vạn cửu bách nhất thập tam (250913)...... Lâm Nguyên Hán thọ cố tác, Dương gia tam niên cánh danh, thứ sử trị. </em><em>S</em><em>àn (sán) Lăng, Linh Dương, Sung, Nguyên Lăng tiên hữu Hồ Đầu sơn. </em><em>T</em><em>hần Dương, Dậu Dương, Thiên Lăng, <strong><u>Đàm Thành</u></strong>, Nguyên Nam, Kiến Vũ nhị thập lục niên (36AD) trí.</em></div>
<div id="ftn25">
(25) Thuỷ Kinh Chú quyển tam thập thất : "<em>Ngân Thuỷ xuất Vũ Lăng <strong>Đàm Thành</strong> huyện bắc giới Nguyên thuỷ cốc</em>".</div>
<div id="ftn26">
(26) Phiên dịch Hán Nôm: "<em>Sở địa, dực - chẩn chi phân dã. Kim chi Nam quận - Giang Hạ - Linh Lăng - Quế Dương - <strong><u>Vũ Lăng</u></strong> - Trường Sa cập Hán trung - Nhữ Nam quận, tận Sở phân dã".</em></div>
<div id="ftn27">
(27) Nguyên giang chảy qua Hồ Nam khác với Nguyên giang tại Vân Nam. Nguyên giang ở Vân Nam là thượng nguồn sông Hồng của Việt Nam.</div>
<div id="ftn28">
(28)<em>Linh Lăng quận Vũ Đế trí. Lạc Dương nam tam thiên tam bách lý. Thập tam thành, hộ nhị thập nhất vạn nhị thiên nhị bách bát thập tứ (21,284), khẩu bách vạn nhất thiên ngũ bách thất thập bát (1,001,578). Tuyền Lăng, Linh Lăng, Dương Sóc sơn Tương thuỷ xuất. Doanh đạo nam hữu<strong> Cửu Nghi sơn</strong>. Doanh Phổ linh đạo, Thao Dương, Đô Lương hữu Lộ sơn., Phù Di hầu quốc ( cố thuộc Trường Sa ) . Thuỷ An hầu quốc. Trọng An hầu quốc, cố Chung Vũ, Vĩnh Kiến tam niên (422AD) cánh danh. Tương hương, Chiêu (Thiệu) Dương hầu quốc . Chưng Dương hầu quốc, cố thuộc Trường Sa.</em></div>
<div id="ftn29">
(29) Nguyên bản:<br />
Phiên âm Hán Nôm: “…<em>Hựu đông bắc quá Tuyền Lăng huyện tây . Doanh Thuỷ xuất Doanh Dương linh đạo huyện nam lưu xuất . Tây lưu kính <strong>Cửu Nghi sơn</strong> hạ , bàn cơ Thương Ngô chi dã , phong tú số quận chi dản (gian, nhàn) . La nham cửu cử , các đạo nhất khê , tụ hác phụ trở , dị lĩnh đồng thế , du giả nghi yên , cố viết <strong>Cửu Nghi sơn</strong></em>”.</div>
<div id="ftn30">
(30) Phiên âm Hán Nôm : Hán thư, Địa lý chí, quyển 28:<br />
" <em>Nam</em><em> Hải quận , Tần trí Tần bại , <strong>Uý Đà vương thử địa</strong> . Vũ đế Nguyên Đỉnh lục niên (111BC) khai . Thuộc Giao Châu . Hộ vạn cửu thiên lục bách nhất thập tam (19613) , khẩu cửu vạn tứ thiên nhị bách ngũ thập tam (94253) .</em> <em>Hữu Bổ (Phố) Tu quan. Huyện lục : <strong>Phiên Ngu</strong>, Uý Đà đô.</em> <em>Hữu Diêm quan. Bác La, Trung Túc, hữu Khuông Phổ quan. Long Xuyên, Tứ Hội, Yết Dương</em><br />
<em>Việt địa, khiên ngưu - vụ nhữ (nữ) chi phân dã. Kim chi Thương Ngô - Uất lâm - Hợp Phố - Giao Chỉ - Cửu Chân - <strong>Nam Hải</strong> - Nhật Nam, giai Việt phân dã</em>".</div>
<div id="ftn31">
(31) Phiên âm Hán Nôm :Hán thư, Địa lý chí, quyển 28: "<em>Vũ Đế nguyên phong nguyên niên (111BC) lược dĩ vi Đạm nhĩ - Châu Nhai quận</em>".</div>
<div id="ftn32">
(32) Phiên âm Hán Nôm: Hậu Hán thư , Chí đệ nhị thập nhị, quận quốc tứ : "<em>Nam</em><em> Hải quận Vũ Đế trí. Lạc Dương nam thất thiên nhất bách lý. Thất thành, hộ thất vạn nhất thiên tứ bách thất thập thất (71,477), khẩu nhị thập ngũ vạn nhị bách bát thập nhị (250,282). <strong>Phiên Ngung (Ngu)</strong>, Bác La, Trung Túc, Long Xuyên, Tứ Hội, Yết Dương, Tăng Thành hữu Lao Linh sơn</em>".</div>
<div id="ftn33">
(33) Phiên âm Hán Nôm :Tấn thư, quyển thập ngũ, chí đệ ngũ: " <strong><em>Giao Châu</em></strong><em>: .... Nam Hải quận Tần trí. Thống huyện lục, hộ cửu thiên ngũ bách. <strong>Phiên Ngung (Ngu)</strong>, Tứ Hội, Tăng Thành, Bác La, Long Xuyên, Bình Di</em>".</div>
<div id="ftn34">
(34) Phiên âm Hán Nôm :<br />
"<strong><em>Dự Chương quận</em></strong><em> Cao Đế trí. Lạc Dương nam nhị thiên thất bách lý. Nhị thập nhất thành, hộ tứ thập vạn lục thiên tứ bách cửu thập lục (406,496), khẩu bách lục thập lục vạn bát thiên cửu bách lục (1,668,906).</em><br />
<em>Nam Xương, Kiến Thành, Tân Cam, Nghi Xuân, Lư Lăng, Cám (Cống) hữu Dự Chương thuỷ. Vu Đô, Nam Dã hữu đài Linh (Lãnh) sơn., Nam Thành, Bá Dương hữu Bá thuỷ. Hoàng kim thái (thải). Lịch Lăng hữu Phó Dương sơn. Dư Hãn, Bá Dương, Bành Trạch, Bành Lãi trạch tại tây. Sài Tang, Ngải Hải Hôn hầu quốc. Bình Đô hầu quốc, cố An Bình., Thạch Dương, Lâm Nhữ, Vĩnh Nguyên bát niên (97) trí., Kiến Xương, Vĩnh Nguyên thập lục niên (105) phân Hải Hôn trí".</em></div>
<div id="ftn35">
(35) Phiên âm Hán Nôm: Tấn thư quyển thập ngũ, chí đệ ngũ : <em>"Lư Lăng quận <strong>Ngô trí</strong>. Thống huyện thập, hộ nhất vạn nhị thiên nhị bách (12200). Tây Xương, Cao Xương, Thạch Dương, Ba Khâu, <strong>Nam</strong><strong> Dã</strong>, Đông Xương, Toại Hưng, Cát Dương, Hưng Bình, Dương Phong"</em>.</div>
<div id="ftn36">
(36) Phiên âm Hán Nôm :<br />
Thuỷ Kinh chú quyển tam thập cửu (39) : "<em>Cám (Cống ) thuỷ xuất Dự Chương Nam Dã huyện tây , bắc quá Cám (Cống) huyện đông . ...</em><br />
<em> Ban Cố xưng <strong>Nam Dã</strong> huyện , Bành thuỷ sở phát , đông nhập Hồ Hán thuỷ .</em><br />
<em>Lưu Trừng Chi viết </em><em>:</em><em>.... </em><em>Dự Chương thuỷ đạo nguyên đông bắc lưu , kính Nam Dã huyện bắc</em>" .</div>
<div id="ftn37">
(37) Nguyễn Bá Mão, người biên dịch sách “Thủy Kinh Chú sớ: “ <em>Đến thời cận đại, vào đầu thế kỷ 20, hai nhà học gỉa gồm thầy là Dương Thủ Kính (1839-1915) và trò là Hùng Hội Trinh (?-1936), trên cơ sở sách "Thủy kinh chú" của Lịch Đạo Nguyên, đã bỏ ra toàn lực trong mấy chục năm trời, thu thập rộng rãi trong các thư tịch, gom góp lại lời của nhiều học giả, để sớ, nghĩa là chú thích kỹ hơn sách "Thủy kinh chú" hợp lại sạn thành bộ sách "thủy kinh chú sớ" cũng gồm 40 quyển, với hơn 1, 510, 000 chữ, nhiều gấp 5 lần sách "Thủy kinh chú", và gấp 100 lần sách gốc "Thủy kinh".</em></div>
<div id="ftn38">
(38) Những chữ in đậm là phiên dịch từ "Thủy Kinh chú" của Lịch Đạo Nguyên.<br />
Phiên dịch Hán Nôm: " <em>Cám (Cống) thuỷ hựu bắc kính Nghiêu Dương huyện , Vương Mãng chi Dự Chương huyện dã . Dư Thuỷ chú chi . Thuỷ đông xuất Dư Hãn huyện , Vương Mãng danh chi viết Trị Can dã. Dư Thuỷ bắc chí Nghiêu Dương huyện chú Cám (Cống) thuỷ"</em>.</div>
<div id="ftn39">
(39) Đây là dặm của Trung Quốc, một dặm = 0.56 Km, không phải dặm Anh (1.6 km)</div>
<div id="ftn40">
(40) Phiên âm Hán Nôm :<br />
<em>“Tấn thư quyển thập ngũ, chí đệ ngũ: Bá Dương quận Ngô trí. Thống huyện bát, hộ lục thiên nhất bách (6100). </em><br />
<em>Quảng Tấn, Bá Dương, Lạc (Nhạc) An, Dư Hãn Nghiêu Dương, Lịch Lăng, Cát Dương, Tấn Hưng”.</em><br />
<em><br /></em>
<em><br /></em></div>
</div>
</div>
</td></tr>
</tbody></table>
Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-83059210972373158382012-08-24T20:51:00.001-07:002012-08-25T02:35:11.000-07:00Gilgamesh – thiên sử thi đầu tiên của nhân loại<br />
<div style="text-align: right;">
<b>Hà Thanh Vân</b></div>
<br />
<div style="text-align: center;">
<img align="bottom" border="0" height="452" src="http://www.aina.org/books/eog/3f92ecba.jpg" style="background-color: white;" width="391" />
</div>
<b><span style="font-size: large;"><br /></span></b>
<b><span style="font-size: large;">Thiên sử thi Gilgamesh và vùng đất Lưỡng Hà</span></b><br />
<b><span style="font-size: large;"><br /></span></b>
Hegel cho rằng sử thi xuất hiện trong lịch sử văn minh nhân loại “vào cái thời kỳ trung gian trong đó một dân tộc thoát khỏi tình trạng mê muội của nó và cảm thấy tinh thần của nó thức tỉnh bắt đầu tạo nên một thế giới dành riêng cho nó và nó cảm thấy sống ở đấy là thoải mái”. Và nếu hiểu theo cách hiểu của Hegel thì sử thi Gilgamesh – bản anh hùng ca của miền đất Lưỡng Ha (Mesopotamia) – hẳn sẽ là áng văn chương đánh dấu sự trưởng thành về mặt tinh thần của nhân loại<br />
<br />
Sử thi, với những đặc trưng trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật, bao giờ cũng là tiếng nói, là diện mạo tinh thần của một vùng đất. Cùng với Ai Cập, Lưỡng Hà được xem là cái nôi của nền văn minh cổ đại. Nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates, đây là một vùng đất phì nhiêu và màu mỡ, thuận lợi cho việc trồng trọt và chăn nuôi. Tuy nhiên khí hậu nóng và khô làm cho việc sản xuất chủ yếu dựa vào sức lao động của con người. Vai trò của hai con sông Tigris và Euphrates đối với Lưỡng Hà được ví như sông Nile đối với Ai Cập, sông Hằng đối với An Độ và sông Hoàng Hà đối với Trung Quốc. Trên mảnh đất Lưỡng Hà đã lần lượt hình thành nhiều vương quốc cổ đại: các quốc gia cổ Sumer và Akkad, vương quốc Cổ Babylon, vương quốc Tân Babylon. Cư dân Lưỡng Hà theo đa thần giáo, mỗi quốc gia thường thờ nhiều vị thần khác nhau. Chữ viết xuất hiện ở Lưỡng Hà khá sớm, do người Sumer phát minh vào khoảng thiên niên kỷ thứ IV trước Công nguyên. Họ dùng gỗ viết trên những phiến đất sét mềm, chữ viết có hình tiết như những góc nhọn nên thường được gọi là những chữ hình góc hay chữ hình đinh.<br />
<br />
Sử thi Gilgamesh được sáng tác vào thời kỳ các quốc gia cổ Sumer và Akkad, có rất nhiều dị bản bằng nhiều ngôn ngữ cổ. Hiện nay, những bản dịch sang ngôn ngữ hiện đại đều dựa trên văn bản tìm được ở Nineved, tại thư viện của vua Assurbanipal, vị vua vĩ đại cuối cùng của người Assyria vào khoảng thế kỷ thứ VII truớc Công nguyên. Văn bản muộn nhất này tương đối hoàn chỉnh và đuợc viết trên mười hai phiến đất sét. Các nhà khảo cổ học tìm được nhiều mảnh vụn, vỡ của bản sử thi này rải rác trong lòng đất. Tuy nhiều câu chữ không khôi phục lại được, nhưng những gì còn lại của Gilgamesh với độ dài hơn 3000 câu cũng đủ để cho chúng ta thấy khá rõ nội dung của bản sử thi mang đậm tính chất anh hùng này.<br />
<br />
<div style="text-align: center;">
<img align="middle" alt="Sử thi Gilgamesh bản bằng đất" src="http://www.khoahoc.com.vn/photos/Image/2006/06/15/gilgamesh400.jpg" style="background-color: #fcfcfd; font-family: arial, verdana, helvetica, sans-serif; font-size: 13px;" /><br />
<span style="background-color: #fcfcfd; color: #3366ff; font-family: arial, verdana, helvetica, sans-serif; font-size: 13px;"><strong>Sử thi</strong> <strong>Gilgamesh</strong> bản bằng đất <em>(Ảnh: malaspi)</em></span></div>
<br />
Ngày nay, các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau rằng sử thi Gilgamesh ra đời từ khoảng năm 2750 đến năm 2500 truớc Công nguyên, tính đến ngày hôm nay là khoảng hơn 4500 năm. Có lẽ đó là bản sử thi cổ xưa nhất thế giới. Không chỉ có giá trị văn học, nó còn như một lăng kính phản chiếu những đường nét của tư tuởng, lối sống, cách suy nghĩ, tư duy ở một thời kỳ xa xưa trong lịch sử nhân loại mà giờ đây không còn lại mấy dấu vết.<br />
<br />
Những nhà nghiên cứu về sử thi Gilgamesh có tên tuổi trên thế giới là Samuel Noah Kramer, Rivkah Kluger, Stephanie Dalley, A. Cavigneaux, F.N.H. Al Rawi, Jean Bottéro, David ferry, Karl Hecker, Alexander Heidel, Joacim krecher, Frank Michaeli, C. Wilcke, Karl Oberhuber, E.A. speiser, thorkild Jacobsen, N. K. Sandars, Herbert Mason, Maureen Gallery Kovacs, Andrew George,…<br />
<br />
Gilgamesh đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, và thậm chí cùng một ngôn ngữ cũng có nhiều bản dịch khác nhau. Trên thế giới, nguời ta biết nhiều đến bản dịch tiếng Anh của Maureen Gallery Kovacs. Bản dịch của nhà nghiên cứu này đã được đưa lên mạng Internet. Bản thân người viết cũng sử dụng bản dịch này để nghiên cứu. Tuy nhiên Maureen Gallery Kovacs chỉ dịch 11 phiến đất sét đầu tiên, do vậy nguời viết có tham khảo thêm bản dịch của N.K. Sandars.<br />
<br />
Gilgamesh tuy rất nổi tiếng trên thế giới nhưng lại ít được phổ biến ở Việt Nam, có lẽ vì hiện nay chưa có bản dịch tiếng Việt. Thật ra Gilgamesh chỉ đuợc nhắc đến một cách chung chung và sơ lược trong một số sách viết về lịch sử văn hoá, văn minh như Almanach những nền văn minh thế giới (Nhiều tác giả, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1995); Lịch sử văn hoá thế giới cổ trung đại (Luơng Ninh chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1998); Lịch sử văn minh thé giới (Vũ Dương Ninh chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội, 2000); Lịch sử thế giới cổ đại (Chiêm Tế, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2000); Lịch sử triết học Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại (Vũ Quang Hà, Trần Thị Mai Hoa, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2000) v.v.<br />
<br />
Hai công trình có đề cập ít nhiều đến bản sử thi Gilgamesh là công trình Đại cương văn hoá phương Đông (Phan Thu Hiền, Nhà xuất bản Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2000); và Câu chuyện văn chương phương Đông (Nhật Chiêu, Nhà xuất bản Giáo dục, 1997).<br />
<br />
<b><span style="font-size: large;">Gương mặt người anh hùng – những niềm vui tột đỉnh phù du và những bi kịch vĩnh cửu của cuộc đời</span></b><br />
<br />
<table align="right" border="0" cellpadding="1" cellspacing="1" style="background-color: #fcfcfd; color: black; font-family: arial, verdana, helvetica, sans-serif; font-size: 13px; text-align: justify; width: 200px;"><tbody>
<tr><td><img align="right" alt="Vua của Thành Uruk " hspace="3" src="http://www.khoahoc.com.vn/photos/Image/2006/06/15/Uruk.jpg" /></td></tr>
<tr><td><div align="center">
<span style="color: #3366ff;">Vua của Thành Uruk<br /><em>(Ảnh: mediarebell</em></span></div>
</td></tr>
</tbody></table>
<br />
<br />
Thiên sử thi kể về chiến công của một vị vua, một người anh hùng mang tên Gilgamesh. Theo truyền thuyết của vùng đất Lưỡng Hà, đã từng có một vị vua thật, cũng tên là Gilgamesh, cai trị xứ sở Uruk vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ III truớc Công nguyên, và được tiếng là một vị vua anh hùng. Sử thi Gilgamesh, do vậy, được xây dựng từ một nguyên mẫu có thật, dù chỉ là có thật trong truyền thuyết.<br />
Mở đầu tác phẩm là hình ảnh của Gilgamesh, vị chúa tể Uruk. Với sức khoẻ hơn người, trí tuệ phi phàm, vóc dáng hoàn hảo, Gilgamesh là hình mẫu lý tưởng vượt lên trên vóc dáng của những con người tầm thường.<br />
<br />
<i>Ai tuyên bố ta là chúa tể</i><br />
<i>Ai sánh được chàng trên cõi đời?</i><br />
<i>Tên của chàng là Gilgamesh</i><br />
<i>Hai phần thần linh, một phần nguời </i><br />
<i>Vẻ đẹp chàng do nữ thần ban tặng</i><br />
<i>Hoàn hảo như ánh sáng mặt trời.1</i><br />
<br />
*** Tất cả những câu thơ trong bài đều được dịch từ bản tiếng Anh của Maureen Gallery Kovacs và có tham khảo thêm bản tiếng Anh của N.K. Sandars.<br />
<br />
Chính vì vậy chàng đâm ra kiêu ngạo và tự cho mình được quyền giết hại các chàng trai, chiếm đoạt các cô gái đẹp. Dân chúng thành Uruk quá bất bình bèn kiện lên các vị thần, các thần bèn sáng tạo ra chàng Enkidu, nửa hình người nửa hình thú, cũng có sức mạnh phi thuờng. Enkidu sống chung với các loài thú rừng, bảo vệ chúng khỏi bị thợ săn giết hại, vì vậy một người thợ săn đến nhờ Gilgamesh giết Enkidu. Gilgamesh đã sai Shamhat – một kỹ nữ ở đền thờ – đến thu phục Enkidu, dùng tình yêu để cảm hoá chàng, giúp chàng từ bỏ bản năng hoang dại<br />
<br />
<i>Quẩn quanh mãi, cuối cùng Enkidu ngồi lại</i><br />
<i>Nuốt từng lời Shambat thốt ra</i><br />
<i>Lời của nàng:</i><br />
<i>Chàng tuyệt đẹp giống như thần linh vậy</i><br />
<i>Sao sống đời muông thú cỏ hoa?</i><br />
<br />
Enkidu theo Shambat về Uruk. Tại đây chàng gặp Gilgamesh và họ cùng đọ sức với nhau nhưng bất phân thắng bại. Hai người trở thành đôi bạn thân.<br />
Lúc bấy giờ ở rừng Bách Hương có yêu quái Humbaba. Nó không cho Uruk đến đây lấy gỗ, hơn nữa, nó còn bắt giữ nữ thần tình yêu và chiến tranh Ishtar nhốt trong khu rừng. Vì vậy Gilgamesh và Enkidu đã đến khu rừng diệt trừ quái vật, giải thoát cho nữ thần Ishtar. Hai người anh hùng trở về Uruk trong tột đỉnh vinh quang và đuợc nhân dân tung hô đón rước long trọng.<br />
Vinh quang lại thường đi kèm với tai hoạ. Xúc động trước lòng dũng cảm, tài năng và vẻ đẹp của Gilgamesh, nữ thần Ishtar đã bày tỏ tình yêu với chàng.<br />
<br />
<i>Mở đôi mắt đẹp, Istar đắm đuối:</i><br />
<i>Đi theo em chàng hỡi, làm chồng</i><br />
<i>Cho em nếm ngọt ngào hạnh phúc</i><br />
<i>Hai ta cùng kết mối tơ hồng</i><br />
<i>Giáp trụ, xa mã là vàng ngọc</i><br />
<i>Giàu sang quyển thế huởng chung</i>.<br />
<br />
Nhưng Gilgamesh lại không muốn gắn bó cuộc đời mình với một kẻ lẳng lơ như nữ thần. Tức tối, Ishtar đã xin cha mình là thần Anu, chúa tể chư thần, trả giúp mối hận. Một con bò tót khổng lồ từ trên trời cao lao xuống nhưng nó bị Gilgamesh xé xác.<br />
<br />
<img align="center" border="1" height="417" src="http://gamethu.vnexpress.net/Files/Subject/3B/9B/35/E5/Gilgamesh.jpg" style="background-color: #f0eded; font-family: Arial; text-align: -webkit-center;" width="300" />
<br />
<br />
Các chư thần tức giận và quyết định ra tay. Ngay đêm đó, Enkidu mơ thấy một giấc mơ kinh hoàng và khi tỉnh dậy, chàng cứ héo dần và chết trên tay người bạn thân thiết Gilgamesh. Lần đầu tiên Gilgamesh chạm mặt với cái chết và từ đó lòng chàng dấy lên khát khao đi tìm kiếm sự bất tử cho bản thân mình. Gilgamesh lại lên đường.<br />
<br />
Nhờ sự chỉ dẫn của nữ thần Siduri, chàng tìm đến người chèo đò Utanapishtim – con người duy nhất được thần linh ban cho sự bất tử - đã vượt qua nạn hồng thủy để duy trì nhân loại. Nhưng Utanapishitim không có cách gì giúp được Gilgamesh vì sự bất tử của ông ta là do định mệnh an bài và do các vị thần xếp đặt. Con người không thể trường sinh bất tử vì:<br />
<br />
<i>Không ai thấy dung nhan thần chết</i><br />
<i>Không ai nghe được tiếng tử thần</i><br />
<i>Không ngôi nhà nào xây vĩnh cửu</i><br />
<table align="right" border="0" cellpadding="1" cellspacing="1" style="background-color: #fcfcfd; color: black; font-family: arial, verdana, helvetica, sans-serif; font-size: 13px; text-align: justify; width: 200px;"><tbody>
<tr><td><img align="right" alt="Người anh hùng Gilgamesh " hspace="3" src="http://www.khoahoc.com.vn/photos/Image/2006/06/15/gilgamesh240.jpg" /></td></tr>
<tr><td><div align="center">
<span style="color: #3366ff;">Người anh hùng <strong>Gilgamesh </strong><br /><em>(Ảnh: planetxvideo)</em></span></div>
</td></tr>
</tbody></table>
<br /><i>Dấu khắc ghi mờ với thời gian.</i><br />
<br />
Để chứng minh cho Gilgamesh biết ý định của chàng chỉ là hão huyền, Utanapishtim đã thách đố Gilgamesh không ngủ sáu ngày sáu đêm liên tiếp, vì giấc ngủ là hình ảnh của thần chết. Gilgamesh nhận lời thách đố nhưng không thức được quá một ngày đêm. Chàng đành quay về. Thương hại chàng, Utanapishtim tiết lộ một bí mật: có một loại cây sống dưới đáy biển có khả năng cải lão hoàn đồng. Gilgamesh đã tìm được loài cây vô giá đó nhưng lại sơ ý bị con rắn nuốt mất. Từ đó có hiện tượng rắn già lột da.<br />
<br />
Thất vọng não nề, Gilgamesh chấp nhận số phận và quay trở về kinh thành Uruk tráng lệ, nơi có những niềm vui trần thế ngắn ngủi mà con người được hưởng trước khi vĩnh viễn ở mãi trong bóng đêm và chết chóc.<br />
<br />
<br />
<b><span style="font-size: large;"><br /></span></b>
<b><span style="font-size: large;"><br /></span></b>
<b><span style="font-size: large;">Diện mạo của nhân loại – những gì sử thi Gilgamesh để lại</span></b><br />
<br />
<img align="middle" alt="Bộ Sử thi Gilgamesh bản bằng đất" hspace="3" src="http://www.khoahoc.com.vn/photos/Image/2006/06/15/sumer_gilgamesh450.jpg" style="background-color: #fcfcfd; color: #3366ff; font-family: arial, verdana, helvetica, sans-serif; font-size: 13px; text-align: -webkit-center;" /><br />
<span style="background-color: #fcfcfd; color: #3366ff; font-family: arial, verdana, helvetica, sans-serif; font-size: 13px; text-align: -webkit-center;">Bộ </span><strong style="background-color: #fcfcfd; color: #3366ff; font-family: arial, verdana, helvetica, sans-serif; font-size: 13px; text-align: -webkit-center;">Sử thi Gilgamesh</strong><span style="background-color: #fcfcfd; color: #3366ff; font-family: arial, verdana, helvetica, sans-serif; font-size: 13px; text-align: -webkit-center;"> bản bằng đất</span><em style="background-color: #fcfcfd; color: #3366ff; font-family: arial, verdana, helvetica, sans-serif; font-size: 13px; text-align: -webkit-center;"> (Ảnh: mingyuen.edu)</em>
<br />
<br />
Cho đến nay vẫn được xem là bản sử thi đầu tiên trong lịch sử loài người, Gilgamesh ngoài việc thể hiện được những băn khoăn thuở ban đầu của con người (hay là “thuở ấu thơ của loài người” theo cách nói của Karl Marx) trong quá trình tự tìm hiểu và tự nhận thức bản thân, còn cho ta thấy nhiều điều thú vị ẩn sau 3000 câu thơ. Băn khoăn của Gilgamesh mãi mãi là những băn khoăn vĩnh cửu của con người về sự sống và cái chết, về vĩnh hằng và phù du, về được và mất, về tình yêu và lòng hận thù.<br />
<br />
Đọc sử thi Gilgamesh, chúng ta thấy lại tư duy cổ sơ của nhân loại, khi đã xa rời tăm tối và hướng đến ánh sáng của văn minh. Con người được miêu tả trong Gilgamesh tuy vẫn là những thần linh và những con người bán thần nhưng trong lối sống, cách tư duy lại hoàn toàn là của con người – con người đích thực, con người trần thế. Họ có tình bạn (giữa Gilgamesh và Enkidu); có tình yêu và lòng khinh bỉ, hận thù (giữa Gilgamesh và Ishtar); có sự quyến rũ thể xác (giữa Enkidu và Shambat); có sự nổi loạn và sự trừng phạt (Gilgamesh và Enkidu) đều do các thần linh tạo ra, nhưng Enkidu và Gilgamesh đều bị thần linh trừng phạt... Nỗi đau đớn của Gilgamesh khi Enkidu qua đời tưởng không gì sánh được:<br />
<br />
<i>Ta thuơng tiếc </i><br />
<i>Hãy nghe ta, hỡi dân chúng trong thành </i><br />
<i>Ta thương tiếc bạn ta dũng sĩ</i><br />
<i>Giận con người không thể sống trường sinh.</i><br />
<br />
Không còn là sử thi sáng thế như trường ca Enuma Elish của Lưỡng Hà nữa, Gilgamesh đích thực là một sử thi anh hùng và hơn thế nữa, một tác phẩm anh hùng ca đậm tính chất trần thế. Những chiến công của Gilgamesh không làm thay đổi được định mệnh. Những người anh hùng Hercules trong thần thoại Hy Lạp may mắn hơn chàng bởi sau khi chết được đón nhận vào hàng ngũ các vị thần trên đỉnh Olympe. Gilgamesh dù có những chiến công hiển hách, dù có đến hai phần thần linh, nhưng chỉ một phần người trong chàng cũng đủ để đưa chàng đến một kết thúc tất yếu theo quy luật cuộc đời. Thật lạ lùng khi một bản sử thi đầu tiên của nhân loại lại có một kết thúc rất trần thế và rất thực tại như thế.<br />
<br />
Câu chuyện kể về người anh hùng được dàn trải trên 3000 câu thơ, các sự kiện lần lượt xuất hiện trước sau với nhiều tình tiết, diễn biến cảm xúc cao độ, làm cho người đọc say mê. Đằng sau những lời ca tụng thần linh là lời ca tụng con người, con người dám đương đầu với thử thách, con người sống hết mình cho tình bạn, tình yêu, dẫu những niềm vui trần thế ấy quá ngắn ngủi so với cái mênh mông vô cùng vô tận của vĩnh hằng.<br />
<br />
<i>Cuộc sống vốn ngắn ngủi</i><br />
<i>Khoảnh khắc đã vụt trôi</i><br />
<i>Thần linh đã sáng tạo</i><br />
<i>Con người phải chết thôi</i><br />
<i>Không cưỡng được số mệnh</i><br />
<i>Thì cứ vui yêu đời</i><br />
<i>Rượu nồng ta nhấp cạn</i><br />
<i>Đến khi nào mềm môi</i><br />
<i>Ao đẹp ta cứ mặc</i><br />
<i>Vợ hiền con ngoan cười</i><br />
<i>Đó chính là những việc</i><br />
<i>Duy nhất trong cuộc đời</i><br />
<br />
Tầm ảnh hưởng rộng lớn của sử thi Gilgamesh là điều không ai có thể phủ nhận: Những mô típ quen thuộc mà chúng ta thấy được trong những sáng tác văn học sau này ở Cận Đông và cả ở hy Lạp, La Mã cổ đại có lẽ bắt nguồn từ Gilgamesh: nhân vật nửa thần nửa người; nủa thú nửa người; con quái vật làm hại dân chúng và bắt cóc người đẹp; nạn đại hồng thủy và cuộc sống trường sinh bất tử; người con gái bị từ chối tình yêu giận dữ tìm cách trả thù; cây thuốc thần và con rắn tai họa…<br />
<br />
Gần năm ngàn năm trôi qua, sử thi Gilgamesh vẫn tồn tại như một kim tự tháp Ai Cập. Câu chuyện kể về một người anh hùng khao khát sự bất tử hoá ra lại có một sức sống dài lâu. Gilgamesh cuối cùng phải lìa bỏ cõi đời nhưng câu chuyện về chàng mãi mãi không lìa bỏ ký ức nhân loại.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
TIẾNG VIỆT<br />
<i>1. Nhật Chiêu, Câu chuyện văn chương phương Đông, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1997</i><br />
<i>2. Vũ Quang Hà, Trần Thị Mai Hoa, Lịch sử triết học Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000.</i><br />
<i>3. G.W.F. Hegel, Mỹ học, Phan Ngọc dịch, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1999.</i><br />
<i>4. Nhiều tác giả, Almanach những nền văn minh thế giới, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1995.</i><br />
<i>5. Lương Ninh chủ biên, Lịch sử văn hoá thế giới cổ trung đại, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1998.</i><br />
<i>6. Vũ Dương Ninh chủ biên, Lịch sử văn minh thế giới, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, 2000.</i><br />
<i>7. Chiêm Tế, Lịch sử thế giới cổ đại, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2000.</i><br />
<i>8. Lương Duy Thứ chủ biên, Đại cương văn hoá phương Đông, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2000.</i><br />
<br />
TIẾNG ANH<br />
<i>9. Stephanie Dalley, Myth from Mesopotania, Creation, the Flood Gilgamesh, and Others (Translated with an Introduction and Notes), The Worlds Classics. Oxford, England:,Oxford University Press, 1989</i><br />
<i>10. David Ferry, Gilgamesh, A New Rendering in English Verse, New York, Farrar, Straus and Giroux, 1992.</i><br />
<i>11. Thorkild Jacobsen, The Treasure of Darkness: A History of Mesopotamian Religion, New Haven CT, Yale University Press, 1976.</i><br />
<i>12. Maureen Gallery Kovacs, The Epic of Gilgamesh: Translated, with an Introduction. Standford CA, Standford University Press, 1989</i><br />
<i>13. N.K. Sandars, The Epic of Gilgamesh: An English Version with an Introduction, Baltimore MD, Penguin Books Inc, 1964</i>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-74506185455965138652012-08-17T03:49:00.000-07:002012-09-04T20:42:47.962-07:00Công nghệ quân sự TQ và Đại Việt<br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<br />
<div style="text-align: right;">
<span style="color: #444444; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><i>nguồn BBC.co.uk/vietnam</i></span></div>
<div style="text-align: right;">
<span style="color: #444444; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><i>tổng hợp: Lê Quỳnh</i></span></div>
<div style="text-align: right;">
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span></div>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><i>Trong số ra tháng Mười 2003, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á (Journal of Southeast Asian Studies) của Đại học quốc gia Singapore giới thiệu chuyên đề về sự chuyển giao quân sự từ bên ngoài vào Đông Nam Á.</i></span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><i>Chùm ba bài tiểu luận đặt trong chủ đề chung “Foreign military transfers in mainland Southeast Asian wars: adaptations, rejections and change.”</i></span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Trong phần giới thiệu, giáo sư Christopher E. Goscha, đại học Lyon II, viết:</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">“Như tại châu Âu, việc chuyển giao, thích ứng và sử dụng kiến thức và kỹ thuật quân sự nước ngoài đã đóng góp nhiều vào sự phát triển của các nhà nước Đông Nam Á. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng dễ để viết về những sự chuyển giao quân sự đó tại Đông Nam Á. Sau nhiều thập niên dưới chế độ thuộc địa phương Tây, chưa kể các cuộc chiến giải phóng dân tộc ở Đông Dương và Indonesia, các kiến trúc sư quá khứ, mang quan điểm dân tộc chủ nghĩa, muốn chọn cách nhấn mạnh yếu tố ‘bản địa’ và ‘chân thật’ thay vì ngoại lai.”</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">“Việc đưa các đóng góp ‘phương Tây’ và ‘Hoa kiều’ vào bức tranh chung có thể gây vấn đề cho các sử gia dân tộc chủ nghĩa, những người muốn nhấn mạnh vai trò của dân tộc họ trong việc xây dựng quốc gia và quá khứ của nó.”</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">“Mặc dù ba bài viết ở đây lưu ý các quan tâm ‘quốc gia’ và ‘khu vực’, nhưng chúng cũng dựa trên niềm tin rằng không quốc gia hay khu vực nào là một hòn đảo – cũng như quá khứ của quốc gia đó. Bản chất tương liên của Đông Nam Á, vị trí của nó ở giao lộ các tuyến thủy-bộ chính và sự đa dạng trong văn hóa-xã hội khiến các quan niệm về sự tự chủ quốc gia và khu vực khó đứng vững. Điều này đặc biệt đúng khi ta tìm hiểu dòng lưu chuyển kiến thức và kỹ thuật quân sự nước ngoài vào Đông Nam Á lục địa.”</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Trong ba bài tiểu luận, một bài của Sun Laichen xem xét sự du nhập công nghệ từ nhà Minh vào Đông Nam Á lục địa thời kì từ 1390 đến 1527. Nhìn từ phía nam, Frédéric Mantienne tập trung vào chuyển giao quân sự của Pháp vào Việt Nam trong thế kỷ 18 và đầu 19. Bài của Christopher E. Goscha tìm hiểu dòng chảy vũ khí vào Việt Nam qua các ngả đường châu Á từ 1905 đến 1954.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Bài viết của Sun Laichen, giáo sư đại học bang California, Fullerton, bao quát cả khu vực Đông Nam Á, tuy vậy trong một bài tiểu luận khác (sẽ xuất bản trong tập Vietnam: Borderless Histories, Nhung Tuyết Trần & Anthony Reid biên tập, University of Wisconsin Press, 2004), ông tập trung hẳn cho chủ đề Đại Việt. Bài viết có tựa đề “Chinese Military Technology and Dai Viet: c. 1390-1497.” Nội dung nghiên cứu này sẽ mở đầu cho loạt bài về du nhập công nghệ quân sự giới thiệu lần này.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Xin lưu ý các bài viết trình bày ở đây chỉ mang tính giới thiệu, tóm tắt nội dung chính, chứ không phải là bản dịch lại trọn vẹn văn bản gốc. Người đọc quan tâm có thể tìm đọc nguyên bản trong Journal of Southeast Asian Studies (Đại học quốc gia Singapore, tháng Mười 2003)</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Thế kỷ 15 chứng kiến Việt Nam (Đại Việt – quốc hiệu có từ thời nhà Lý) mở rộng cương vực rộng lớn chưa từng có. Sự bành trướng này bao gồm sự kiện nổi tiếng năm 1471 khi kinh đô Vijaya của Chămpa thất thủ trước quân Lê Thánh Tông, và cuộc “trường chinh” ít người biết của Đại Việt đến sông Irawaddy của Miến Điện khoảng giữa 1479 và 1484. Trong chủ đề bài viết của Sun Laichen, câu hỏi chính đặt ra là vì sao, sau hàng trăm năm đối đầu với Chămpa, Đại Việt lại có thể đánh quỵ Chămpa vào thời điểm này?</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Việc chuyển giao công nghệ quân sự từ Trung Quốc vào Việt Nam đã có từ lâu, nhưng một diễn biến quan trọng xảy ra đầu thời Minh. Năm 1390, vua Chế Bồng Nga của Chămpa bị giết khi trúng đạn của quân nhà Trần. Loại súng được dùng để bắn vào thuyền vị vua họ Chế trước nay thường được hiểu là thần công, nhưng có lẽ nên hiểu đó là súng cầm tay. Như Momoki Shiro - đại học Osaka, Nhật Bản - chỉ ra, đó là loại vũ khí mới.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Năm 1839, Việt Nam mua con tàu chạy bằng hơi nước đầu tiên, sau đó là ba thuyền khác – có tên Yên Phi, Vũ Phi và Hương Phi.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><b>Nội chiến thế kỷ 18</b></span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Mặc dù các chúa Trịnh và Nguyễn rất nhiệt tình trong việc thu lượm các súng kiểu phương Tây trong thế kỷ 17, nhưng có vẻ họ ít quan tâm đến các công nghệ liên quan việc đắp đồn lũy và đóng tàu. Việc ‘nhập khẩu’ công nghệ quân sự phương Tây chỉ trở nên đặc biệt quan trọng trong cuộc chiến Tây Sơn. Sau một chiến thắng chủ chốt của Tây Sơn năm 1773, và cái chết sau đó của hầu hết các hoàng tử nhà Nguyễn, người cuối cùng còn lại – Nguyễn Ánh – bị buộc chạy sâu vào trong đồng bằng sông Cửu Long. Trong năm 1776 hoặc 1777, vị hoàng tử trẻ làm quen với một nhà truyền giáo Pháp, Pierre Pigneaux de Béhaine (tức Bá Đa Lộc), linh mục xứ Adran, lúc đó đang sống ở Hà Tiên. Pigneaux thuyết phục vị hoàng tử nhà Nguyễn là ông chỉ có thể là đối trọng với sức mạnh Tây Sơn bằng cách sử dụng thiết bị và chiến thuật của châu Âu.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Nghệ thuật xây thành đắp lũy đã có từ rất xưa ở Việt Nam. Ngôi thành lớn xưa nhất là thủ đô của An Dương Vương tại Cổ Loa, cách trung tâm Hà Nội 15 cây số. Đến cuối thế kỷ 14, Hồ Quý Ly cho xây thành Tây Đô ở tỉnh Thanh Hóa. Trong thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông lệnh cho xây nhiều thành ở Hà Nội, Thanh Hóa, Đồng Hới. Một số thành tại Hà Nội và Thanh Hóa được dựa trên mô hình thành Trung Hoa hình vuông, còn các thành trong khu vực rừng núi xây theo mô hình rừng núi, tương tự như Vạn Lý Trường Thành. Sang thế kỷ 17, các chúa Nguyễn xây một hệ thống phòng thủ phức tạp trên vùng ranh giới giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài để chống các đợt chinh phạt của nhà Trịnh từ Đàng Ngoài. Hệ thống này gồm nhiều lũy (Trương Dực và Đồng Hới), dài khoảng 10 cây số, với một pháo đài ở Dinh Muôi, nơi tập trung bản doanh, kho thóc và bộ máy hành chính tỉnh Quảng Bình. Lũy Đồng Hới đánh dấu biên giới giữa hai vương quốc đất Việt, hiệu quả đến mức sau nhiều cuộc tấn công không thành của nhà Trịnh, hai vùng ở trong tình trạng tạm yên ắng trong một trăm năm.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Trong những thế kỷ trước đó, cả Đàng Ngoài và Đàng Trong có điểm đáng chú ý là cả hai miền đều không có những đội thuyền buôn.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Trong thế kỷ thứ sáu, các lãnh đạo địa phương chống lại sự chiếm đóng của các triều đại Trung Quốc suy thoái, nhưng đến đầu thế kỷ thứ bảy họ không có sự chống đỡ hiệu quả nào trước sự hiện diện của các nhà Tùy và Đường. Trong hai thế kỷ bảy và tám, các quan nhà Đường thành lập An Nam Đô hộ phủ ở miền Bắc Việt Nam. Đô hộ phủ là một dạng khu vực có tổ chức ở vùng biên giới tạo ra cho các khu vực chiến lược xa xôi mà cư dân là những người không phải dân Trung Quốc. Việc thiết lập An Nam Đô hộ phủ đi kèm với việc thâu thập, sát nhập giai cấp thống trị địa phương vào hệ thống phân tầng quan chức của đế chế. Chừng nào thế lực nhà Đường còn mạnh, khu vực này vẫn tương đối bình yên. Nhưng cuối thế kỷ tám và thế kỷ chín là giai đoạn bất ổn chính trị, với những thế lực địa phương tranh giành quyền lãnh đạo với tư cách là người ủng hộ hoặc chống đối chế độ nhà Đường mà ngày càng trở nên yếu kém; đến cuối thế kỷ Chín, triều đình Trung Quốc đã suy giảm ảnh hưởng đến mức chỉ còn đưa quân tiến vào khu vực với mục đích duy trì sự toàn vẹn biên giới mà thôi.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Lý Phật Mã (Lý Thái Tông, trị vì 1028-54) sinh năm 1000 và đã được chuẩn bị cẩn thận để lên làm vua. Nhiều điềm báo được gán cho lúc ông sinh ra và trưởng thành, để nói ông có một định mệnh của riêng mình chứ không đơn thuần là người kế vị cha. Thành tựu của ông là tạo ra các định chế cho triều Lý, và ông được xem là vị vua vĩ đại nhất của triều Lý cũng như là một trong những vị vua giỏi nhất trong lịch sử Việt Nam. Nghiên cứu 26 năm cai trị của ông cũng có thể xem là nghiên cứu về tiến trình phát triển của một bộ óc thông minh, phức tạp. Hơn bất kì vị vua nào khác của Việt Nam thời kì đầu lịch sử, Lý Phật Mã được các nguồn sử liệu thể hiện như một nhân cách sống động tranh luận với các cố vấn, và quan hệ giữa họ là một quan hệ khuyế́n khích lẫn nhau. Nếu Lý Công Uẩn chỉ sử dụng một niên hiệu trong những năm trị vì, Lý Phật Mã sử dụng sáu niên hiệu, mỗi cái thể hiện một giai đoạn trong sự phát triển tri thức của ông và một phong cách lãnh đạo tương ứng.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Các nguồn tư liệu Trung Quốc thể hiện Lý Nhật Tôn (Lý Thánh Tông, trị vì 1054-72) như vị vua Việt dám xem mình là hoàng đế, một điều đối với người Trung Quốc là sự thách thức trực tiếp với cái nhìn về thế giới của họ. Quan điểm Trung Hoa này có thể chỉ là một cách viết sử xuất phát từ cuộc chiến Hoa-Việt thập niên 1070, một công thức biện minh cho quyết định sau đó gửi quân chống Đại Việt. Nhưng ngay cả nếu quả tình là thế, thì vẫn có nhiều bằng chứng từ sử Việt Nam cho thấy Lý Nhật Tôn áp dụng nhiều nghi thức hoàng đế của Trung Quốc, từ việc nêu quốc hiệu, quần áo các quan, cho đến phẩm trật của quan lại, thành viên hoàng tộc và miếu hiệu cho các vua đi trước. Ngoài ra, trong thời cai trị của Lý Nhật Tôn đã diễn ra việc biên giới Hoa-Việt trở thành địa điểm đối đầu.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Phe nhà Trần cuối cùng thành công trong việc đánh bại các đối thủ và lập vương triều mới năm 1225.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Để tránh nguy cơ gia đình nhà ngoại can thiệp triều chính, các vua Trần chỉ lấy hoàng hậu từ họ Trần. Vào lúc tột đỉnh sức mạnh, các vua Trần ra quyết định tham khảo ý kiến của các chú, anh em – tạo nên sự đoàn kết trong nội bộ hoàng gia. Triều Trần bắt đầu sụp đổ khi những quy tắc đó không còn được tuân theo.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Lê Lợi, một địa chủ giàu có từ Thanh Hóa, nơi đồng bằng sông Mã, đã lập nên nhà Lê. Ông chỉ tại vị trong năm năm. Những người kế tục sau đó là con trai và cháu của ông, tất cả đều lên ngôi khi còn nhỏ và triều đình nằm trong tay các tướng lĩnh từng theo Lê Lợi trong kháng chiến chống Minh. Năm 1460, một người cháu khác của Lê Lợi, Lê Thánh Tông, lên ngôi. Thời gian ông trị vì, từ 1460 đến 1497, được nhớ như là một trong những triều đại nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam. Mô hình chính quyền của ông đã trở thành khuôn mẫu cho các vị vua Việt Nam trong năm thế kỷ tiếp theo. Đây là thời đại của học thuật và văn chương: các tác phẩm quan trọng ra đời và còn lại đến nay. Đó cũng là thời đại của sức mạnh quân sự, khi các cuộc chinh phục Lào và Chămpa thập niên 1470 đã mở rộng lãnh thổ. Sự nghịch lý của triều đại Lê Thánh Tông nằm ở chỗ, mặc dù nó tạo nên bộ máy chính quyền hoàn chỉnh, nhưng chỉ mười năm sau khi ông mất, triều đình đã rơi vào cuộc khủng hoảng mà nó không bao giờ còn gượng dậy nổi.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><b>Đại Việt thời Hậu Trần – Hồ</b></span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Các quan điểm giải thích chính trước nay có thể tóm tắt như sau:</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Đầu tiên, luận điểm về nông nghiệp và dân số: quan điểm này cho rằng sự tăng dân số của Đại Việt vừa tạo động lực lại vừa đem lại lợi thế cho tiến trình Nam tiến của người Việt. Chiến thắng của người Việt, tóm gọn lại, là chiến thắng của biển người.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Thứ hai, luận điểm về sự chuyển hóa Khổng giáo cho rằng cuộc xâm lược của nhà Minh năm 1406-1407 dẫn tới việc người Việt áp dụng mô hình Trung Hoa kiểu nhà Minh, đặc biệt dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460-1497), khiến nhà nước Việt Nam được chuyển hóa. Cụ thể, Đại Việt bám lấy hệ tư tưởng của Trung Hoa “văn minh đối nghịch dị chủng” và áp dụng nó trong quan hệ với Chămpa. Như lời của John K. Whitmore, một trong những chuyên gia nổi tiếng về triều Lê: “Giờ đây câu hỏi về đạo đức chiếm vai trò trung tâm và đánh dấu sự khác biệt giữa người “văn minh” và người “man di”. Sự tương đối văn hóa không còn ngự trị , và các cuộc tấn công cũng thôi không còn là các cuộc cướp phá để sau đó một hoàng tử địa phương khác được đặt lên ngôi. Giờ đây mục tiêu là đem ‘văn minh’ cho các địch quốc dị chủng.” Nói cách khác, người Việt phải chiếm vĩnh viễn Chămpa để khai hóa cho dân tộc đó.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Thứ ba, luận điểm về định chế. Nếu lý thuyết về Khổng giáo giải thích sức mạnh thể chế của Đại Việt, sự diễn giải định chế giải thích yếu kém của Chămpa. Theo Kenneth R. Hall, Chămpa là “một hệ thống nhà nước được thể chế hóa yếu ớt phụ thuộc vào các mạng lưới liên minh cá nhân để liên kết một dân số tản mác.” Kết quả là sự yếu kém thể chế cố hữu của nhà nước Chăm cuối cùng đóng dấu số phận của nó.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Thế bài của Sun Laichen có gì khác? Nghiên cứu của ông tiếp cận vấn đề từ góc độ kỹ thuật bằng cách xem xét khía cạnh công nghệ quân sự. Nó cho rằng hỏa khí lấy từ gốc Trung Quốc đã đóng vai trò quan trọng trong tiến trình tiến về miền Tây, Nam của Đại Việt trong cuối thế kỷ 15.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><b>Vũ khí Đại Việt thời kỳ đầu</b></span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Để hiểu tầm quan trọng của chiến thắng năm 1390 của Đại Việt, cần nhớ trong suốt nhiều năm trước đó, sức mạnh của vua Chế Bồng Nga là nỗi kinh hoàng cho nhà Trần. Trong ba thập niên (1361-1390), Chế Bồng Nga thực hiện khoảng mười cuộc xâm lăng vào Đại Việt, và thủ đô Thăng Long rơi vào tay quân Chàm ba lần. Khi tướng Trần Khát Chân được cử đi chống quân Chămpa, vua tôi nhà Trần cùng khóc giữa lúc quân tiến lên đường. Giữa lúc khủng hoảng đó, thì một đầy tớ của họ Chế vì bị tội, trốn sang quân Trần chỉ cho biết thuyền của vua Chế. Tướng Trần Khát Chân cho tập trung hỏa lực bắn vào thuyền Chế Bồng Nga, Chiêm vương trúng đạn chết, quân tướng bỏ chạy. Trong tác phẩm về lịch sử Chămpa, học giả Pháp Maspero cho rằng sự phản bội của người đầy tớ Chàm đã ngừng bước tiến của quân Chàm và cứu Đại Việt khỏi sụp đổ. Tuy vậy, nếu không có kỹ thuật thuốc súng mới thu lượm, chiến thắng thủy chiến của Đại Việt, cũng như số phận vương quốc, sẽ không chắc chắn. Vì thế, năm 1390 được nhiều người xem là đánh dấu sự thay đổi trong tương quan lực lượng giữa Đại Việt và Chămpa. Có vẻ như hiệu quả của công nghệ quân sự mới của Đại Việt đóng một vai trò trong thay đổi này.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Mặc dù nguồn gốc của loại súng cầm tay của Đại Việt không được nhắc rõ, có thể suy đoán nó được học hoặc từ các thương nhân hoặc từ những binh lính đào ngũ nhà Minh trước năm 1390. Dường như việc áp dụng súng tại Đại Việt đã tăng nhu cầu về thuốc súng, giống như vào năm 1396, nhà Hậu Trần dưới sự kiểm soát của Hồ Quý Ly phát hành tiền giấy và yêu cầu nhân dân đổi lại tiền đồng, có thể một phần với mục đích thu thêm đồng để sản xuất súng.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Sự xâm lăng và chiếm đóng của nhà Minh tại Đại Việt từ 1406 đến 1427 thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ quân sự từ Trung Quốc. Nhà Minh đã huy động các vị tướng và binh lính thiện chiến nhất cho chiến dịch tấn công Đại Việt. Để đối phó với hỏa khí của Đại Việt, vua Minh Thành Tổ ra lệnh sản xuất các khiên lớn và dày. Ông ra lệnh không được để lộ kỹ thuật làm súng cho đối phương, phải bảo đảm là khi rút quân, súng “phải được đếm theo số hiệu và không để một khẩu súng nào thất lạc.” Trong số 215.000 quân Minh tham gia chiến dịch viễn chinh, khoảng 21.000 lính thuộc khẩu đội được vũ trang bằng súng.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Ngày 19 tháng 11-1406, quân Minh do Trương Phụ dẫn đầu tiến vào từ Quảng Tây, còn đội quân của Mộc Thạnh tấn công từ Vân Nam. Sau các thắng lợi ban đầu, quân Minh tổ chức đánh thành Đa Bang, thuộc Sơn Tây, là tiền tuyến của quân Hồ. Việc chiếm thành Đa Bang bộc lộ vai trò quan trọng của súng ống của quân Minh. Đa Bang là vị trí chiến lược quan trọng nhất trong toàn bộ hệ thống phòng thủ khi ấy của Đại Việt, và nhà Hồ tập trung quân tướng và vũ khí tốt nhất để phòng thủ nơi này. Trận tấn công bắt đầu ngày 19 tháng Giêng, 1407. Khi quân Minh dùng thang ập vào thành mà leo lên, những người lính Việt chỉ có thể bắn vài mũi tên và đạn. Sau khi vào thành, quân Minh đối diện với các đoàn voi trận. Quân Minh vẽ hình sư tử trùm lên ngựa để làm voi sợ, và đặc biệt, nhóm quân súng thần cơ đóng vai trò quyết định cho thắng lợi của quân Minh. Các đoàn voi trận Đông Nam Á vốn vẫn là đối thủ đáng gờm trước quân Trung Quốc trong nhiều thế kỷ, nhưng trước hỏa lực mạnh của đối phương, voi đành bỏ chạy. Khi Đa Bang vỡ, quân nhà Hồ không còn ngăn được đà tiến về miền đông và nam của quân Minh. Ngày 20 tháng Giêng, Đông Đô (Thăng Long) sụp đổ, và sáu ngày sau, Tây Đô (vùng Thanh Hóa) cũng rơi vào tay quân viễn chinh.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Trong các trận chiến sau đó, súng của quân Minh cũng chứng tỏ hiệu quả. Ngày 21 tháng Hai, trên Lục giang, quân Minh huy động thủy – lục quân với nhiều loại súng, tấn công 500 chiến thuyền của Hồ Nguyên Trừng, giết chết hơn 10.000 lính Việt. Một nguồn sử Trung Hoa mô tả trận chiến là “súng bắn ra như sao rơi, sét đánh.” Đầu tháng Năm 1407, một trận lớn diễn ra ở bến Hàm Tử, Hưng Yên. Nhà Hồ huy động lực lượng đáng kể (70.000 quân) và nhiều chiến thuyền kéo dài trên sông đến năm cây số. Mặc dù quân Hồ cũng sử dụng súng chống trả, nhưng hỏa lực quân Minh vẫn đủ sức tạo chiến thắng, với 10.000 lính Việt tử trận. Ngày 16-17 tháng Sáu 1407, quân Minh kết thúc chiến dịch với việc bắt sống Hồ Quý Ly và các con. Chiến thắng nhanh chóng khiến tướng Hoàng Phúc bình luận: “Thành công nhanh chóng thế này chưa bao giờ xảy ra trong quá khứ.”</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Đại Việt dưới thời Hồ Quý Ly đã chuẩn bị cho khả năng bị xâm lăng từ sớm, và huy động một lực lượng quân đội lớn chưa từng thấy. Tuy vậy, chế độ nhà Hồ sụp đổ nhanh chóng. Lý do, bên cạnh các yếu tố khác như bất mãn của tầng lớp quý tộc và dân chúng trong nước, sai lầm chiến lược, còn là ưu thế quân sự, bao gồm súng đạn, của nhà Minh.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><b>Đại Việt áp dụng kỹ thuật súng</b></span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Tuy nhiên, quân Minh dần dần đánh mất ưu thế công nghệ này vì đối phương của họ, dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, cướp ngày càng nhiều vũ khí của quân Minh trong các trận đánh năm 1418, 1420, 1421, 1424 và 1425. Ví dụ như trận Ninh Kiều cuối năm 1426. Trước đó, quân Minh ở Đông Quan (Thăng Long) đã sử dụng súng để chống đỡ đợt vây ráp của quân Lê Lợi. Người Việt rút lui, và quân Minh đuổi theo. Khoảng 100.000 quân Minh do Vương Thông và các tướng khác dẫn đầu bị phục kích và chịu thất bại thảm hại. Điều quan trọng cho chủ đề ta đang bàn ở đây là trong số quân Minh có 510 người lính thuộc đơn vị quân súng thần cơ. Vì thua trận, quân Minh mất gần hết vũ khí. Sau khi lui về Đông Quan, họ buộc phải tái sản xuất súng đạn, sử dụng chất liệu đồng từ việc phá hủy chuông Quy Điền và vạc Phổ Minh (được gọi là hai trong số bốn tứ bảo của Việt Nam).</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Chiến thắng Ninh Kiều có hai tầm quan trọng cho quân Lê Lợi. Thứ nhất, đây là lần họ thu được nhiều nhất súng ống của quân Minh, khiến trang bị được tăng cường. Thứ hai, trận đánh là điểm bước ngoặt trong phong trào chống Minh của Đại Việt. Đến tháng 12-1426, Lê Lợi đã đưa quân ra vây Đông Quan.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Ngoài ra, những tù binh và hàng tướng quân Minh cũng dạy lại cho người Việt các kỹ thuật quân sự. Trong số hàng binh, có lẽ viên sĩ quan có tên Cai Fu là nhân vật cao cấp nhất. Ông ta đã đóng vai trò lớn giúp quân Minh chiếm thành Đa Bang năm 1407, nhưng đến đầu năm 1427, ông đầu hàng và dạy cho quân của Bình Định Vương Lê Lợi các kỹ thuật đánh thành mà sau đó sẽ dùng để lấy Xương Giang và Đông Quan.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Các loại vũ khí, thu được hay chế tạo mới, đã giúp quân Đại Việt đánh đuổi quân Minh. Điều này đặc biệt thể hiện trong việc vây thành Xương Giang, có lẽ là cứ điểm quan trọng nhất của quân Minh đầu năm 1427. Quân Minh dựa vào đây để hỗ trợ Đông Quan trong lúc chờ viện binh từ Trung Quốc. Vì thế, quân Đại Việt quyết chiếm lấy Xương Giang trước khi viện binh Trung Quốc đến từ Vân Nam. Lê Lợi đã vây thành này hơn sáu tháng, nhưng vẫn chưa đánh được. Khoảng hai ngàn lính Minh đã dùng súng và máy bắn đá để bảo vệ thành phố. Cuối cùng, khoảng 80.000 chiến binh Đại Việt đã cướp được thành bằng cách dùng những kỹ thuật học từ người Trung Quốc. Đại Việt sử ký toàn thư chép quân Lê Lợi “mở đường đánh nhau với giặc, dùng câu liêm, giáo dài, nỏ cứng, tên lửa, súng lửa, bốn mặt đánh vào, thành cuối cùng bị hạ.” Giống như việc quân Minh chiếm thành Đa Bang năm 1407 báo hiệu nhà Hồ sụp đổ, việc Xương Giang vỡ cũng báo hiệu ngày tàn của quân Minh. Nếu không có hỏa lực hạng nặng, gần như không thể có chiến thắng của quân Đại Việt. Hai mươi năm sau khi Đa Bang sụp đổ, quân Đại Việt giờ đây được vũ trang tốt hơn với các loại súng mà nhiều trong đó lấy của quân Minh.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Chiếm được Xương Giang, quân Đại Việt cướp thêm được nhiều vũ khí, và họ chiếm thêm được nhiều hơn nữa khi cuối năm 1427, quân Đại Việt đánh bại 150.000 viện binh nhà Minh. Đại Việt sử ký toàn thư chép là số vũ khí mà quân Lê Lợi lấy từ viện quân nhiều gấp đôi số lượng lấy được từ Xương Giang. Khi hơn 80.000 quân và thường dân nhà Minh cuối cùng rút khỏi Đại Việt tháng Giêng 1428, chắc chắn số binh lính Minh đã bi tước vũ khí. Số lượng vũ khí cũng như người Minh còn ở lại Đại Việt sau khi quân Minh rút lui đã gây lo ngại lớn cho triều đình phương Bắc. Nhà Minh liên tục đòi Đại Việt trao trả các quan binh, và vũ khí. Về vũ khí, mặc dù chính thức thì bảo đã trả hết, nhưng Đại Việt không trả lại món nào và cuối cùng triều Minh phải từ bỏ yêu sách.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Tuy vậy, cần nói rằng Đại Việt không chỉ du nhập công nghệ quân sự mà cũng xuất khẩu một số kỹ thuật ưu việt sang Trung Quốc.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Sau khi nhà Minh chiếm Đại Việt năm 1407, họ thu lấy một loại mũi tên của người Việt (shen qiang), có thể dịch ra là “thần tiễn”. Kỹ thuật này sau đó được Trung Quốc thu nhận cho loại súng ngắn vào năm 1415.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><b>Đóng góp của người Việt</b></span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Ngoài ra, thiết bị gảy cò súng ngắn, làm ít nhất từ năm 1410 trở đi, được cải tiến ở chỗ, thay vì một lỗ nhỏ nơi chêm kíp nổ vào, thì bây giờ là một khe hình chữ nhật có nắp thêm vào phần đằng sau của nòng súng ngắn. Nhờ thế thuận tiện hơn khi kích hoạt thuốc súng trong khe và chiếc nắp thì che cho khỏi ướt thuốc súng trong những ngày mưa. Người ta đoán rằng thiết bị này có thể được người Việt sáng chế vì mô hình đầu tiên được làm năm 1410 sau khi nhà Minh xâm lược Đại Việt, và còn vì khí hậu nhiệt đới ở Đại Việt có lẽ đã khuyến khích tạo nên sáng chế này.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Theo lệnh của vua Minh, những tù binh Việt Nam giỏi làm súng được đưa về thủ đô Nam Kinh cùng với các thợ thủ công khác. Khoảng 17.000 người Việt được đưa về Trung Quốc, trong đó có Hồ Nguyên Trừng (tên tiếng Hoa là Li Cheng). Nguyên Trừng, con trưởng Hồ Quý Ly, là người phụ trách quân cơ dưới triều Hồ. Nhờ giỏi làm vũ khí, ông thoát cảnh tù tội, được vua Minh phong đến chức Công bộ Thị Lang. Khi Nguyên Trừng qua đời ở tuổi 73, con trai ông lại tiếp tục chế tạo vũ khí cho nhà Minh cho đến khi về hưu năm 1470. Cho mãi đến năm 1489, con cháu của những người này vẫn còn đang phục vụ trong triều Minh.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Trong bộ Minh Sử, hoàn thành năm 1739, có một đoạn văn nổi tiếng: “Đến thời Minh Thành Tổ, Giao Chỉ được bình định, kỹ thuật làm súng được học, một tiểu đoàn hỏa khí được đặc biệt thành lập để rèn luyện vũ khí.” Đoạn văn đã khiến nhiều người sau này tin rằng người Trung Quốc, sau khi xâm lăng Đại Việt năm 1406, đã học công nghệ hỏa khí từ người Việt. Theo tác giả Sun Laichen, vấn đề thực sự là Trung Quốc đã học thêm một số kỹ thuật mới, chứ không phải công nghệ thuốc súng, từ Đại Việt. Bộ Minh Sử có vẻ lấy thông tin từ quyển sách của Shen Defu. Theo Shen: “Triều đại chúng ta sử dụng hỏa khí để đánh rợ phương bắc, và hỏa khí này là vũ khí tốt nhất từ trước đến nay. Tuy nhiên, những kỹ thuật bản địa chỉ thu được khi Minh Thành Tổ bình định Giao Chỉ. Triều ta đã dùng viên tướng quốc Nguyên Trừng làm việc tại Công Bộ, phụ trách việc sản xuất các vũ khí của người Việt, và mọi kỹ thuật đều đã được nắm bắt.”</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><b>Đại Việt mở rộng về miền Tây, Nam</b></span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Dưới triều Lê Thánh Tông (1460-97), Đại Việt bước vào giai đoạn củng cố nội địa và bành trướng lãnh thổ nhanh chóng. Tháng Ba 1471, kinh đô Chà Bàn (Vijaya) của người Chàm thất thủ. Theo sử Việt Nam, hơn 30.000 người Chàm bị bắt, trong đó có vua Trà Toàn, trong lúc 40.000 người Chàm chết. Về phía người Chàm, không có bằng chứng cho thấy họ từng sử dụng hỏa khí. Một phái viên Trung Quốc đến Chămpa năm 1441 kể lại những người lính Chàm gác nơi tường thành chỉ mang theo giáo bằng tre. Một quyển từ điển Hoa-Chàm thế kỷ 15, trong phần từ vựng về vũ khí, chỉ cho người ta thấy các loại thông dụng như giáo mác. Cho mãi đến thập niên 1590, một quan sát của người Bồ Đào Nha còn viết là tuy người Chàm đã có súng, nhưng họ lại phải thuê nô lệ nước ngoài để sử dụng.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Sau khi Đại Việt đánh hạ Chămpa, nhiều láng giềng phía Tây bắt đầu gửi cống phẩm. Thế rồi năm 1479, Đại Việt tấn công thêm Ai Lao, Muong Phuan, Lan Sang. Năm 1480, quân nhà Lê lấn chiếm Nan, khu vực khi đó thuộc Lan Na. Cuối cùng, quân Đại Việt tiến xa lên đến sông Irrawaddy ở vương quốc Ava (thuộc Miến Điện ngày nay). Năm 1485, Đại Việt đưa thêm Melaka vào danh sách các nước nộp triều cống, cùng Chămpa, Lang Sang, Ayudhya và Java. Sự lớn mạnh của Đại Việt trong nửa đầu thế kỷ 15 có thể có một nguyên nhân quan trọng: đó là công nghệ vũ khí mà họ học được.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Sau triều vua Lê Thánh Tông, người Việt tiếp tục sử dụng hỏa khí với cường độ cao, tuy là kể từ đầu thế kỷ 16, các loại súng chủ yếu được sử dụng trong các cuộc tranh giành nội bộ, thay vì chống lại bên ngoài. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, các loại súng được dùng thường xuyên bởi cả hai lực lượng Mạc và Trịnh trong các năm 1530, 1555, 1557, 1578, 1589, 1591, 1592, 1593.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Từ nửa đầu thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 19, trong phân tranh Trịnh-Nguyễn, trận Tây Sơn đánh Thanh, phân tranh Nguyễn-Tây Sơn, mặc dù người Việt vẫn sử dụng các thuật ngữ gốc tiếng Hoa để chỉ các loại hỏa khí, nhưng các loại súng kiểu Trung Quốc dần dần nhường chỗ cho kỹ thuật Tây phương. Tuy vậy, chúng vẫn không biến mất hoàn toàn. Cần nói là kỹ thuật quân sự Tây phương sau này du nhập vào Việt Nam không phải trong một khoảng chân không, mà nó được hình thành từ lớp nền Hoa-Việt từ trước đó. Cũng đáng lưu ý là người Việt, khác với nhiều nước Đông Nam Á khác như Miến Điện, có khuynh hướng không dựa vào quân đánh thuê mà vào quân bản địa. Kỹ năng hỏa khí thuần thục của người Việt có lẽ đã khiến cho việc thuê mướn thành không cần thiết.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><b>Kết luận</b></span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Hỏa khí Trung Quốc như vậy đã vào Đại Việt khoảng năm 1390, hơn 120 năm trước khi Melaka rơi vào tay người phương Tây (Bồ Đào Nha) năm 1511. Việc chuyển giao công nghệ lại được thúc đẩy với việc chiếm đóng của quân Minh thời kì 1406-1427. Quân Minh, nhờ một phần vào ưu thế hỏa khí, đã chinh phục Đại Việt – một thành tích mà sau này không còn triều đại Trung Quốc nào lặp lại được. Tuy vậy, ưu thế hỏa khí này sau đó đã bị người Việt học hỏi và góp phần vào cuộc đánh đuổi người Minh ra khỏi Đại Việt.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Trao đổi văn hóa diễn ra hai chiều và điều này cũng áp dụng cho sự lan truyền công nghệ quân sự giữa Trung Quốc và Đại Việt. Mặc dù Đại Việt ban đầu học công nghệ thuốc súng từ Trung Quốc, người Việt cũng xuất khẩu một số kỹ thuật sang vùng đất Bắc.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Các nhà nước và dân tộc phát triển và suy thoái vì nhiều lý do. Sự sụp đổ của Chămpa có nhiều nguyên nhân, và công nghệ thuốc súng có thể là một trong nhiều yếu tố đó. Nửa cuối thế kỷ 15 là thời đại vàng son của Đại Việt, đặc biệt về mặt bành trướng ra nước ngoài. Về phía nam, Đại Việt đè bẹp Chămpa sau mấy trăm năm đối đầu để rồi từ đó trở đi Chămpa không còn sức mạnh, khiến tính chất địa chính trị của khu vực Đông Nam Á lục địa thay đổi nhiều. Về hướng tây, Đại Việt không chỉ bình ổn vùng biên giới với các dân tộc Thái, mà còn tiến lên cả sông Irrawaddy ở Miến Điện cuối thập niên 1470. Kết quả là các vương quốc ở mạn bắc của Đông Nam Á lục địa gồm Lan Sang, Chiang Mai, Sipsong Panna và Miến Điện lo ngại, đến cả nhà Minh cũng thấy cần báo động.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Có thể cho là Đại Việt đã mượn, lĩnh hội và nội hóa công nghệ quân sự Trung Quốc và dùng nó cho mục đích của mình, trong lúc Chămpa, vì những lý do chưa rõ ràng, lại không học công nghệ này và hứng chịu hậu quả. Các vương quốc khác tại Đông Nam Á, mặc dù cũng thu lấy công nghệ thuốc súng, nhưng áp dụng nó không hiệu quả như Đại Việt thế kỷ 15.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<br />
<h2>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><b>Phụ lục 1 : Chuyển giao quân sự:Trường hợp nhà Nguyễn</b></span></h2>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Đáng lưu ý là ngay cả người Pháp, cho đến trước năm 1816-1818, còn chưa dùng tàu hơi nước cho các sứ mạng thương mại. Đến cuối thập niên 1820, các hạm đội Anh và Pháp mới đặt hàng các tàu hơi nước đầu tiên.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Trong khu vực, đến thập niên 1830, vua Rama III của Thái Lan mới quyết định chỉ dùng toàn mô hình châu Âu cho hạm đội nhà nước Thái. Tức là trong khi người Thái mới bắt đầu nói về tàu kiểu Tây phương, thì Việt Nam đã mua tàu chạy bằng hơi nước.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><i>Đây là một trong vài ví dụ nêu ra trong bài viết của Frédéric Mantienne, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á (Đại học quốc gia Singapore, số tháng Mười 2003).</i></span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><i>Frédéric Mantienne, làm việc tại Laboratoire Péninsule Indochinoise thuộc Viện Viễn Đông Bác Cổ, Paris, là tác giả quyển “Les relations politiques et commerciales entre La France et la Peninsule Indochinoise” (2001). Quyển sách nói về quan hệ trong thế kỷ 17-18 giữa Pháp và các nước thuộc bán đảo Đông Dương và các vùng phụ cận: Việt Nam, Thái Lan, Campuchia và Miến Điện.</i></span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><i><br /></i></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><i>Tiếp tục loạt bài giới thiệu các nghiên cứu mới về chuyển giao quân sự từ ngoài vào Việt Nam, chúng tôi xin tóm tắt nội dung chính bài viết của Frédéric Mantienne có tựa đề “The Transfer of Western Military Technology to Vietnam in the Late 18th and early 19th centuries: The case of the Nguyễn.”</i></span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Bước ngoặt bắt đầu với chuyến đi của Pigneaux đến Pondicherry và sau đó là đến Pháp giữa năm 1785 và 1789. Ở đó vị cha xứ ký một hiệp ước quân sự với triều đình Pháp nhân danh Nguyễn Ánh. Nhưng cuối cùng ông không thuyết phục được triều đình Pháp thực thi hiệp ước. Dẫu vậy, ông linh mục cũng quyên đủ tiền và khiến người Pháp đủ quan tâm tới tương lai Nguyễn Ánh để tập hợp nhiều chuyến hàng vũ khí, đạn dược xuất xứ từ Pondicherry và Mauritius. Nhiều thuyền lớn cập cảng tại Đàng Trong và được Nguyễn Ánh thuê cùng với thủy thủ đoàn, cùng một số sĩ quan Pháp được giáo sĩ thuyết phục tham gia. Đa số những người Tây phương này là thủy thủ, nhưng có hai người là chuyên viên quân sự quen thuộc với đạn pháo và các kỹ thuật xây đồn lũy. Trước nay nhiều người thường khẳng định có tới khoảng 400 người Pháp phục vụ trong quân đội Nguyễn Ánh, nhưng con số này đã bị phóng đại nhiều. Dựa trên các nguồn tư liệu của Pháp đương thời, theo Frédéric Mantienne, ta có thể cho rằng có không quá 100 người Pháp tại Đàng Trong̣ trước năm 1792, và sau năm đó thì chỉ còn vài người ở lại – khoảng 12 sĩ quan và một số lính tráng. Trong những năm 1799-1802, khi chiến tranh ở giai đoạn ác liệt nhất, chỉ còn sáu sĩ quan hải quân còn ở lại Đàng Trong. Vì thế không thể nói tự thân những người Pháp một tay thay đổi chiến cuộc. Tuy nhiên, họ đã dạy lại cho quân đội Nguyễn Ánh các kỹ thuật mới và chia sẻ kỹ thuật tác chiến mà cho phép quân thủy bộ nhà Nguyễn trở thành đối trọng của quân Tây Sơn.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Các công nghệ châu Âu trong việc đắp đồn lũy và đóng tàu trong mấy thập niên cuối của thế kỷ 18 đã kéo dài trong thời gian sau đó trong lịch sử Việt Nam. Chúng tiếp tục được áp dụng và cải tiến trong thời Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị. Bài viết của Frédéric Mantienne chủ yếu tập trung vào ba triều đại này.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><b>Xây đồn lũy</b></span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Như thế nghệ thuật xây thành đắp lũy của người Việt khi ấy chủ yếu dựa trên tiêu chuẩn của Trung Quốc, theo hình vuông hoặc chữ nhật. Sau khi chiến tranh Trịnh-Nguyễn chính thức chấm dứt năm 1672, có ít bằng chứng để nói có các đợt xây dựng mới nhằm mục đích quân sự. Tuy nhiên, đến thế kỷ 18, cuộc chiến Tây Sơn làm sống lại tầm quan trọng của việc xây thành, với các bên đối nghịch thực thi các cuộc vây thành và xây đồn lũy mới. Tây Sơn củng cố thành đô của họ ở Chà Bàn, gần cảng Thị Nại, phía bắc Quy Nhơn. Trong lúc đó, Nguyễn Ánh biến Sài Gòn thành thủ đô; thành phố và khu vực xung quanh nó được biết đến với tên Gia Định. Cứ mỗi mùa xuân, Tây Sơn đưa đại quân và thuyền chiến đánh tràn vào Gia Định. Lực lượng Nguyễn Ánh liên tục bị đánh bại, và vị lãnh đạo có lúc phải bôn tẩu cả ra nước ngoài.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Đến tháng Bảy 1789, Bá Đa Lộc trở về Sài Gòn từ Pháp. Một trong các bước đầu tiên của Nguyễn Ánh là yêu cầu các sĩ quan Pháp dựng đề án, và giám sát việc xây đắp, một tòa thành hiện đại theo kiểu châu Âu tại Sài Gòn. Đề án do Theodore Lebrun và Victor Olivier de Puymanel lập ra, và 30.000 người được huy động để xây thành. Thành này làm bằng đá; chu vi khoảng 4.176 mét. Sébastien Le Prestre (1633-1707), bá tước xứ Vauban, đã xây dựng, tái thiết hơn 300 thành lũy tại Pháp và các ý tưởng của ông về việc xây thành được châu Âu áp dụng trong hơn một thế kỷ. Và thành Sài Gòn được xây dựa trên mô hình Vauban. Tuy vậy, thành này lại thường được mô tả như có phong cách ‘Trung Quốc’, xây hình bát giác, với tám cổng thành. (Trong bài viết, Frédéric Mantienne sử dụng hai tấm bản đồ Sài Gòn làm năm 1799 và 1815, cộng thêm quan sát của người nước ngoài để chứng minh thành Sài Gòn được xây dựa trên mô hình châu Âu.)</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Tòa thành Sài Gòn đóng vai trò quan trọng cho Nguyễn Ánh; khi nó hoàn thành năm 1790, ông có một cứ địa vững tại miền Nam, và từ thời điểm đó, quân Tây Sơn không còn có thêm nỗ lực chiếm Sài Gòn nữa. Việc xây thành cho phép Nguyễn Ánh bắt đầu không chỉ nghĩ đến việc phòng thủ mà cả tái chinh phục; vì như đoạn sau sẽ trình bày, việc phòng thủ dựa trên gạch đá, nhưng cũng dựa vào gió mùa, tức thủy quân. Ta cần nhớ mỗi năm thủy quân của Nguyễn Ánh thường rời Gia Định và hướng về bắc trong tháng Sáu-Bảy – khi gió mùa thổi từ mạn tây nam – để gia nhập lực lượng lục quân đóng trên lãnh địa Tây Sơn và tổ chức tấn công. Khi gió đổi hướng, thủy quân buộc phải quay về nam, sử dụng gió thổi từ mạn đông bắc.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Năm 1794, sau một chiến dịch thành công ở Nha Trang, thay vì quay về nam trước lúc gió mùa chuyển hướng, Nguyễn Ánh lại xây một thành ở Diên Khánh, gần Nha Trang. Được de Puymanel xây, tòa thành do hoàng tử Cảnh, con Nguyễn Ánh, trấn thủ với sự giúp đỡ của linh mục xứ Adran và de Puymanel. Quân Tây Sơn vây thành tháng Năm 1794, nhưng không chiếm được. Ngay sau khi cuộc bủa vây kết thúc, quân nhà Nguyễn từ Sài Gòn quay lại Nha Trang và tái tục hoạt động quân sự ở khu vực này. Lần đầu tiên kể từ khi chiến tranh bắt đầu, quân Nguyễn Ánh có thể ở lại trong mùa thời tiết xấu tại một khu vực mà trước đó vẫn thuộc Tây Sơn. Vì thế các thành Sài Gòn và Diên Khánh đóng vai trò rất quan trọng trong thành công của Nguyễn Ánh. Tầm quan trọng không hẳn mang tính quân sự - mặc dù trận vây Diên Khánh là một trận lớn – mà chủ yếu mang tính tâm lý: Sài Gòn có vị trí như một đại bản doanh mạnh, còn Diên Khánh là cái gai ngay trong da thịt Tây Sơn.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Đến khi chiến tranh kết thúc và Gia Long thống nhất Việt Nam (theo nghĩa một Việt Nam về mặt địa lý mà ta biết hiện nay), chỉ mới có hai tòa thành được xây dưới sự giám sát của người Pháp. Nhưng rõ ràng Gia Long và Minh Mạng tin tưởng tính hiệu quả của chúng, vì thời kì hòa bình sẽ chứng kiến việc xây cất 32 tòa thành kiểu Vauban trong năm 1802 đến 1844: 11 thành dưới thời Gia Long, 20 dưới thời Minh Mạng và một khi Thiệu Trị lên ngôi. Các thành mới trải dài từ bắc đến nam, từ Cao Bằng đến Hà Tiên.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Tuy vậy, dưới thời Minh Mạng, hình thù các tòa thành mới xây được chuyển sang hình vuông hoặc chữ nhật, với bốn tòa tháp ở các góc mà thôi. Thành Sài Gòn là một ví dụ: Xây năm 1790 theo mô hình Vauban, nó bị phá bỏ năm 1835 sau cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi. Ngay sau đó, Minh Mạng cho xây thành mới, lần này có thiết kế giản dị hơn, hình vuông với chỉ bốn tháp canh.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Liệu có thể kết luận mô hình châu Âu đã bị từ bỏ để thay bằng hình mẫu Trung Hoa truyền thống? Có người đã khẳng định khi không còn sự trợ giúp của các cố vấn châu Âu, những kỹ sư Việt Nam không còn có thể xây theo các mô hình châu Âu và điều này giải thích cho sự trở lại của mô hình cổ điển Trung Hoa. Thế nhưng một điều thú vị ở đây: các thành mới xây dựng sau năm 1822 thực tế được thiết kế theo các cải tiến mới nhất trong việc xây thành đang diễn ra tại châu Âu vào lúc đó. Cũng lấy ví dụ từ thành Sài Gòn xây lại năm 1836: nó có hình thức chữ nhật, với các tháp canh lớn ở bốn góc. Các tháp canh bên ngoài, tiêu biểu cho mô hình Vauban từ thời các cỗ pháo có tầm bắn ngắn hơn, đã không còn được dùng. Vẻ ngoài của thành rất giống các pháo đài xây tại Pháp dưới thời Đệ nhất đế chế (1804-1814). Nó nhắc người ta về pháo đài Liédot trên bờ biển Thái Bình Dương và đa số các pháo đài được xây sau đó, gồm cả các pháo đài quanh Paris sau năm 1840. Trong thập niên 1830 và 1840, cũng các pháo đài, thành lũy kiểu tương tự được xây tại cả Việt Nam và châu Âu. Các kỹ sư Việt Nam, tưởng như phải đơn giản hóa cách xây kiểu Vauban vì nó phức tạp quá, hóa ra lại đi theo những kỹ thuật tân tiến nhất của châu Âu.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Một ví dụ khác của việc áp dụng kỹ thuật mới được Finlayson cung cấp. Ông này đến thăm Huế năm 1822 và ngạc nhiên về tòa thành, lúc đó đang xây dở dang. Ông viết: “Phần bờ tường này đã được xây xong, rất hoàn chỉnh. Nhưng vị vua đương thời Minh Mạng không hài lòng với các nguyên tắc Vauban. Ông xây các lỗ châu mai theo một đề án của riêng ông. Trật tự của chúng đổi ngược lại, tức là càng tiến về hào thì các lỗ châu mai càng hẹp hơn, và càng hướng về thành lũy thì chúng rộng ra.”</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Cả hai ví dụ trên biểu lộ rằng các kỹ sư của Minh Mạng nắm vững các diễn biến mới nhất trong nghệ thuật xây thành ở châu Âu và áp dụng ngay vào Việt Nam. Chúng ta có thể nghĩ rằng thông tin mới đã được cung cấp bởi Jean-Baptiste Chaigneau, một trong hai sĩ quan hải quân ở lại Huế sau khi chiến tranh chấm dứt, vì ông quay lại Pháp năm 1819 và hai năm sau trở lại Việt Nam. Người ta biết ông mang về nhiều quyển sách do Gia Long đặt mua, gồm các nghiên cứu khoa học kỹ thuật mới nhất. Vai trò của Chaigneau trong việc cung cấp các sách mới nhất được thể hiện qua việc các tòa thành do Gia Long xây (trước lú Chaigneau đi Pháp năm 1819) được xây theo kiểu Vauban, nhưng khi ông quay lại Việt Nam dưới thời Minh Mạng, tất cả các tòa thành mà người ta còn giữ được bản vẽ đều theo kiểu hình vuông.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Tòa thành Sài Gòn được xây dưới sự hướng dẫn của Puymanel và Lebrun, còn Diên Khánh có sự chỉ đạo của Puymanel. Hai sĩ quan này rời Việt Nam ngay trước khi chiến tranh kết thúc. Khi Gia Long bắt đầu xây thêm thành sau năm 1802, chỉ còn bốn người Pháp có mặt ở Việt Nam – một bác sĩ và ba sĩ quan hải quân – và không có bằng chứng để nói họ liên quan việc xây các thành mới. Các tài liệu còn lại xác nhận các kĩ sư Việt Nam tự mình vẽ đồ án và giám sát việc thi công. Họ đã được Lebrun và Puymanel dạy nghệ thuật xây thành kiểu Vauban, và họ cũng có các quyển sách và bức tranh do cha xứ Adran dịch lại. Chắc chắn chúng được dùng để huấn luyện các kĩ sư người Việt. Một quân đoàn đặc biệt cũng được thành lập để xây cất và bảo dưỡng các thành mới; việc tạo ra ‘văn phòng’ Giám thành (coi sóc thành) chứng tỏ tầm quan trọng mà Gia Long dành cho vấn đề này.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Việc giới thiệu các nguyên tắc Vauban vào Việt Nam cuối thế kỷ 18 tạo nên thay đổi lớn trong nghệ thuật xây thành của người Việt. Mặc dù các kỹ sư Việt Nam được người Pháp truyền dạy, nhưng sau đó họ tự mình quản lý việc xây thành không cần nước ngoài giúp. Theo Frédéric Mantienne, lúc đó các tòa thành ở Việt Nam được xem là độc đáo tại châu Á, tính cả các thuộc địa của phương Tây. Các kỹ sư Việt Nam biến đổi kỹ thuật học được cho phù hợp môi trường địa phương và nắm bắt những diễn biến mới tại châu Âu. Từ cuối thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19, họ áp dụng các kỹ thuật tiên tiến châu Âu vào lĩnh vực xây thành. Để so sánh, viên tùy viên Pháp tháp tùng đoàn quân Anh-Pháp tấn công Trung Quốc năm 1860 đã xem xét cách phòng thủ ở các thành lũy và các pháo đài bảo vệ Thiên Tân. Ông ghi lại rằng người Trung Quốc vẫn còn ở trình độ thô sơ trong việc xây thành, chưa chắc tương đương châu Âu thời Trung Cổ trong việc phòng thủ và tấn công các điểm dinh lũy.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Sau cuộc chiến Tây Sơn, các tòa thành kiểu châu Âu xây trong thời bình trở thành biểu tượng, và là dinh cơ, của quyền lực vương triều, vì đại diện cấp tỉnh của triều đình sống trong đó. Chắc chắn mạng lưới thành lũy khắp toàn quốc đã giúp nhà Nguyễn củng cố chế độ mới vì thành lũy là công cụ giúp đẩy lui các cuộc nổi loạn nổ ra. Nhà Nguyễn hiểu rõ công dụng của thành lũy trong việc xây dựng một nhà nước tập trung hùng mạnh – một điều mà các vương triều châu Âu từ lâu đã biết</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Viết trong thế kỷ 17, Alexandre de Rhodes ghi nhận là người Việt tại Đông Kinh không bao giờ đi buôn ra ngoài địa phận vương quốc, vì nhiều lý do. Đầu tiên, họ không nắm vững nghệ thuật xác định phương hướng trên đại dương và chỉ tham dự các trao đổi dọc bờ biển. Thứ hai, thuyền của họ không đủ chắc để ra biển lớn.</span><span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Cuối cùng, nhà cầm quyền không cho phép con dân được ra khỏi vương quốc.</span><br />
<br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><b>Thủy quân và việc đóng thuyền</b></span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Ngoại trừ việc ra biển của các đoàn thuyền nhỏ, chúng ta có ít bằng chứng cho thấy các tàu Việt Nam đến các nước khác. Nếu có thuyền ra ngoài, thì cũng không rõ thuyền đó thuộc về người Hoa hay người Việt. Dù vậy cũng có các thuyền nhỏ đi từ Đàng Trong đến Xiêm trong thế kỷ 17, đưa thương nhân Việt Nam dưới lớp vỏ sứ thần đến triều đình vương quốc Ayudhya. Năm 1682, một cha xứ Pháp và hai thương nhân Anh thuê một tàu đánh cá nhỏ của người Việt và thuê một thủy thủ Bồ Đào Nha chở họ đi từ Đông Kinh đến Ayudhya. Dẫu vậy, việc một chiếc thuyền Việt Nam đến Xiêm được các cha xứ tường thuật như là một sự kiện ngoại lệ.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Hai thực thể Việt Nam – Đông Kinh và Đàng Trong – cùng chung một điểm là cả hai đều không trực tiếp tham dự vào mọi hình thức buôn bán ra ngoài nước: tất cả nhập khẩu các sản phẩm đưa đến các cảng Việt Nam bởi thương nhân nước ngoài trên các tàu nước ngoài. Hàng xuất khẩu được chở đi cùng một cách thức như vậy. Đa số ngoại thương vì thế phụ thuộc vào thiện chí và quyền lợi của các nhân tố nước ngoài, dù là người Hoa hay châu Âu.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Ngược lại, hạm đội quân sự của hai miền lại mạnh cả về kích thước lẫn chất lượng. Việc đánh bại một hạm đội do Công ty Đông Ấn Hà Lan gửi đi chống Đàng Trong năm 1643 là ví dụ thể hiện sức mạnh và tinh thần chiến đấu của hạm đội Việt Nam. Tuy vậy, tất cả các chiến thuyền của Đàng Trong đều là thuyền galê (sàn thấp, chạy bằng buồm và chèo). Các thuyền này tuy hiệu quả khi đánh dọc biển và cửa sông, nhưng không tốt lắm khi đi ra xa hơn.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Tình hình thay đổi hoàn toàn trong cuộc chiến Tây Sơn. Từ 1775 đến 1788, các hạm đội Tây Sơn thường xuyên hướng về nam để cướp lúa tại Gia Đinh và chở chúng về địa phương mình, nơi liên tục thiếu lương thực. Năm nào Tây Sơn cũng làm được như vậy vì hạm đội của họ nhiều hơn hạm đội Nguyễn Ánh. Đến năm 1781, linh mục xứ Adran thuyết phục Nguyễn Ánh thuê đoàn tàu Bồ Đào Nha cùng thủy thủ đoàn và súng. Nhưng kinh nghiệm đầu tiên lại là thảm họa. Vì những lý do chưa rõ ràng, hai trong các thuyền Bồ Đào Nha đã trốn khỏi chiến trường, còn thủy thủ đoàn trên chiếc thứ ba bị những người lính Việt Nam giận dữ giết hết.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Mấy năm sau, tình hình mới sáng sủa hơn cho Nguyễn Ánh. Vị linh mục quay về từ Pháp mang theo một số phương tiện, gồm hai chiếc tàu. Các tàu này mang theo thiết bị quân sự và ở lại Sài Gòn. Đầu tiên, thủy thủ đoàn là người Pháp và Ấn Độ, sau đó thì là người Việt dưới sự dẫn dắt của sĩ quan Pháp. Các con tàu này là nền tảng cho việc xây dựng một hạm đội mạnh. Trong những năm sau đó, Nguyễn Ánh đã mua hoặc thuê thêm tàu châu Âu, và khi chiến tranh gần chấm dứt thì hạm đội của ông đã trưởng thành. Đến năm 1792, hai chiếc tàu châu Âu đã hoạt động cùng hai trăm chiếc khác cùng loại tiến đánh Tây Sơn ở Quy Nhơn. Năm 1801, một sư đoàn trong hải đội của Nguyễn Ánh bao gồm chín tàu châu Âu trang bị 60 súng, 5 tàu lớn với 50 súng, 40 tàu với 16 súng, 100 thuyền mành, 119 thuyền galê và 365 thuyền nhỏ hơn.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Không phải con tàu kiểu châu Âu nào trong số này cũng được mua từ nước ngoài; thực tế, đa số chúng được làm trong một cơ xưởng tại Sài Gòn. Bản thân Nguyễn Ánh coi sóc việc xây dựng, mỗi ngày trải qua hàng giờ trong xưởng. Đến năm 1792, 15 tàu chiến đã hoàn thành, với mô hình nửa Trung Hoa, nửa Tây phương. Việc học hỏi kỹ thuật Tây phương được kể là thông qua một ý tưởng đơn giản: một con tàu cũ của châu Âu được tháo rời từng mảnh, rồi lắp lại để thợ mộc Việt Nam học từng chi tiết. Nguyễn Ánh cũng học nghề mộc. Ông học thêm lý thuyết hàng hải từ các cuốn sách do linh mục xứ Adran dịch lại.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Về con số sĩ quan và thủy thủ Pháp trong hải quân Nguyễn Ánh, trong khoảng từ 1790-1792, không đầy 80 sĩ quan và thủy thủ Pháp có mặt ở Việt Nam, và đa số họ rời khỏi trong năm 1792. Vì thế có thể cho rằng từ 1792 đến 1799, còn rất ít người Pháp tháp tùng trong hạm đội nhà Nguyễn. Điều đó có nghĩa thủy thủ trên các tàu đều là người Việt, được huấn luyện để điều khiển các tàu kiểu châu Âu.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Việc kết hợp các con tàu sử dụng sức gió của châu Âu (với ưu thế về đạn pháo) và các tàu kiểu cổ điển đã cho Nguyễn Ánh lợi thế trước quân Tây Sơn. Trong khoảng năm 1792-1793, hàng trăm tàu Tây Sơn bị chìm hoặc bị cướp trong các cuộc lâm chiến với các con tàu kiểu Tây phương. Hải quân mới của nhà Nguyễn cũng đóng vai trò quan trọng trong các trận quyết định như vào năm 1801-1802 (tại Thị Nại) khi cả hai bên huy động đại quân cả trên bộ lẫn dưới nước.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Thời kì 1790-1802 đánh dấu sự chuyển đổi trong thái độ của người Việt đối với đại dương và các nước khác. Trong vòng 12 năm, dân tộc Việt Nam, những người trước đó bị cho là không hợp với các chuyến hải hành đường dài, đã học được các kỹ thuật nước ngoài, áp dụng chúng trong hoàn cảnh địa phương để xây dựng một hạm đội mạnh. Một ví dụ mang tính biểu tượng cho sự mở cửa của Việt Nam ra với biển: đoàn sứ thần do nhà Nguyễn gửi đến Trung Quốc để xin hoàng đế nhà Thanh công nhận triều Nguyễn đã đi bằng đường biển thay vì đi qua biên giới phía bắc như hàng thế kỷ trước đó.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Trong thời hậu chiến, các con tàu kiểu châu Âu cũng được dùng cho việc buôn bán. Chúng không chỉ chở gạo từ miền nam ra miền trung Việt Nam, mà còn dùng cho các hành trình ra nước ngoài. Gia Long năm 1802 chấm dứt việc gửi phái đoàn thương mại ra nước ngoài để mua súng đạn, nhưng Minh Mạng sau đó lặp lại lề thói này. Các chuyến hải hành thương mại cũng đem lại cơ hội cho thủy thủ đoàn Việt Nam tập ra biển lớn, và sử dụng kỹ thuật phương Tây. Năm 1823, Minh Mạng ra lệnh cho thủy thủ đoàn học sử dụng các dụng cụ đi biển, học xác định phương hướng. Năm 1835, các chỉ thị tương tự ban hành xoay quay việc nhập khẩu các kỹ thuật hải trình; năm 1842, đến lượt người kế vị Minh Mạng, Thiệu Trị, ra các chỉ thị như vậy.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Ý chí chính trị học hỏi các kỹ thuật nước ngoài đạt đỉnh cao trong cuối thập niên 1830 khi Minh Mạng ra lệnh mua tàu chạy bằng hơi nước. Phan Huy Chú năm 1833 lần đầu tiên nhìn thấy tàu hơi nước ở Batavia, và Lý Văn Phức mô tả một tàu khác trong chuyến đi đến Calcutta. Năm 1839, Việt Nam mua con tàu hơi nước đầu tiên, sau đó là ba thuyền khác – có tên Yên Phi, Vũ Phi và Hương Phi. Năm 1844, một con tàu lớn hơn được mua, với tên Diễn Phi.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Đáng lưu ý là ngay cả người Pháp, cho đến trước năm 1816-1818, còn chưa dùng tàu hơi nước cho các sứ mạng thương mại. Đến cuối thập niên 1820, các hạm đội Anh và Pháp mới đặt hàng các tàu hơi nước đầu tiên. Tại châu Á, người Hà Lan đặt hàng con tàu hơi nước đầu tiên cho hạm đội của họ năm 1837, và một hai năm sau mới có con tàu thương mại đầu tiên.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Trong khi đó mãi đến thập niên 1830, vua Rama III của Thái Lan mới quyết định chỉ dùng toàn mô hình châu Âu cho hạm đội nhà nước Thái. Tức là trong khi người Thái mới bắt đầu nói về tàu kiểu Tây phương, thì Việt Nam đã mua tàu chạy bằng hơi nước. Có vẻ như trong nửa đầu thế kỷ 19, tại châu Á, Việt Nam thuộc một vài nước đầu tiên quan tâm kỹ thuật hàng hải châu Âu.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Năm 1839, mối quan tâm đạt đỉnh điểm khi người Việt định sao chép và tự đóng một con tàu hơi nước trong xưởng ở Huế. Nỗ lực này thất bại. Kỹ năng sao chép kỹ thuật phương Tây của người Việt đã đạt đến giới hạn khi họ đối diện sự phức tạp của một đầu máy hơi nước. Có vẻ không thể cứ học mót kiến thức về khoa học nước ngoài. Nỗ lực của người Việt muốn theo kịp kỹ thuật mới nhất của phương Tây không chỉ thể hiện ý chí của vua Minh Mạng muốn thu vén các kỹ thuật nước ngoài cho đất nước. Nỗ lực đó còn thể hiện giới hạn của chính sách này. Liệu Việt Nam có thể nhận hết các kỹ thuật mà không chịu học các nguyên tắc nền tảng mà đã giúp tạo ra các kỹ thuật chăng?</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><b>Mở cửa hay khép cửa?</b></span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Hai chủ đề, xây thành và đóng tàu, cho thấy việc học kỹ thuật nước ngoài đã không chỉ là chính sách thời chiến của nhà Nguyễn, mà tồn tại liên tục trong ba triều vua đầu tiên. Mối quan tâm học từ nước ngoài cũng không giới hạn trong các vấn đề quân sự. Bài của Frédéric Mantienne cho rằng chính sách của nhà Nguyễn không phải là bác bỏ các kỹ thuật nước ngoài, mà thực chất đã đón nhận rộng rãi chúng. Ngay cả thời Minh Mạng cũng không đi ngược lại chính sách của cha ông; ngược lại, người ta để ý một nỗ lực ra ngoài biên giới để mua hàng hóa và kỹ thuật nước ngoài, nhất là kỹ thuật. Gia Long và Minh Mạng nhận thức rõ về các đe dọa phương Tây, và làm hết sức để gạt bỏ ảnh hưởng chính trị phương Tây ra khỏi vương quốc. Việc họ từ chối các giao dịch chính thức với cả người Pháp và Anh, ý chí kiểm soát thương mại của người châu Âu, cũng như sự thù địch với Thiên chúa giáo – tất cả là kết quả của nỗi sợ về đe dọa của phương Tây. Nhưng mặt khác, các vua Nguyễn cũng rất cởi mở trước các khía cạnh khác của thế giới bên ngoài, trong đó có Tây phương. Không chịu nhắm mắt trước thế giới bên ngoài, họ muốn duy trì sự độc lập giữa một thế giới châu Á đang sắp sụp đổ dưới sức nặng của sự bành trướng châu Âu. Việc học hỏi và áp dụng các kỹ thuật phương Tây là bằng chứng cho điều này.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Ấn tượng sau khi đọc bài của Frédéric Mantienne có thể là: quyết tâm đổi mới đất nước thông qua việc du nhập các kỹ thuật tân tiến từ bên ngoài là một chuyện, còn mức độ khả thi lâu dài là ở đâu nếu không chấp nhận các nguyên tắc và môi trường đã nuôi dưỡng những kỹ thuật ấy?</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<br />
<h2>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><b>Phụ lục 2 : Sự hình thành cơ cấu chính trị Đại Việt</b></span></h2>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Bộ hai quyển “The Cambridge History of Southeast Asia”, do đại học Cambridge xuất bản năm 1992, có bao gồm bài viết của Keith Taylor, giáo sư môn lịch sử Việt Nam ở ĐH Cornell, Hoa Kỳ.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Bài này nhan đề “The Early Kingdoms” (Các vương quốc thời kì đầu), nằm trong chương Ba của tập sách. Bài viết khái quát sự hình thành các vương quốc Chămpa, Angkor, Pagan, Ayutthaya, Srivijaya, Majapahit và Việt Nam.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Sự đáng chú ý trong tiểu luận của Keith Taylor không nằm ở các chi tiết niên đại hay các trận đánh (vốn chỉ được nói lướt qua), mà ở các nhận định về sự biến đổi trong cơ cấu chính trị cũng như nhận thức của người Việt về cách thức trị quốc.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Những ghi chép lịch sử về Đông Nam Á bắt đầu với sự xuất hiện của những người lính và quan lại Trung Quốc dọc đường biển Nam Trung Hoa vào khoảng cuối thế kỷ thứ ba trước Công nguyên.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Khu vực mà các viên chức Trung Hoa có nhiệm vụ ghi chép tư liệu chạm trán trực tiếp nhiều nhất nằm ở đồng bằng sông Hồng, ở nơi ngày nay là miền bắc Việt Nam. Các đoàn quân nhà Hán chinh phục khu vực này vào thế kỷ thứ nhất và, đến cuối thế kỷ thứ ba, các cố gắng của những người điều hành biên giới Trung Quốc và các đại tộc địa phương đã tạo ra một thực thể cấp tỉnh tương đối ổn định, nhạy cảm trước quyền lợi đế quốc Trung Quốc đồng thời đại diện cho một hệ thống quyền lực địa phương có khả năng giành thế chủ động đại diện cho các quyền lợi của chính nó khi đế chế Trung Hoa rơi vào thế yếu hoặc đang trong quá trình chuyển tiếp.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><b>Ban đầu</b></span><br />
<br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Một sự phát triển quan trọng trong giai đoạn nhà Đường là việc địa điểm mà ngày nay là Hà Nội trở thành trung tâm chính trị của các vùng đất của người Việt. Trước đó, những trung tâm chính trị đầu tiên tại đồng bằng sông Hồng mà ta còn biết đến nằm dọc rìa tây bắc và phía bắc của đồng bằng; đến thế kỷ thứ Bảy, việc định cư ở đồng bằng đã đạt tới mức Hà Nội trở thành trung tâm quyền lực.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Trong thế kỷ Mười, sau sự sụp đổ của nhà Đường, các cố gắng của những người thuộc lớp cai trị ở Việt Nam muốn thành lập chế độ quân chủ đã thất bại, mặc dù có chiến thắng trước đoàn quân Nam Hán năm 939. Đến thập niên 960, đội quân nông dân do Đinh Bộ Lĩnh lãnh đạo, từ đại bản doanh ở Hoa Lư, áp đặt một trật tự tương đối tại khu vực.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Các vị vua người Việt trị vì tại Hoa Lưu từ thập niên 960 đến 1009 khẳng định sự lãnh đạo đối với các địa phương có người Việt và giành được sự công nhận của Trung Quốc đối với uy quyền khu vực của họ. Hai thành tựu này là những điều kiện căn bản để thành lập một thực thể chính trị của người Việt, tuy vậy, chúng chưa đủ, và sự lãnh đạo của Hoa Lư chỉ là chuyển tiếp. Trong thập niên 960, Đinh Bộ Lĩnh giành uy thế quân sự tại miền Bắc Việt Nam, đè bẹp tham vọng của nhiều đối thủ; năm 980-1, Lê Hoàn đánh bại đội quân viễn chinh nhà Tống, và vì thế giành được sự công nhận của Trung Quốc như một chư hầu. Tuy vậy tất cả chủ yếu là các thành tựu quân sự. Chính các nhà sư Phật giáo, phục vụ các chiến binh Hoa Lư, đã biến các thành tựu quân sự này thành những thành tựu ngoại giao lâu dài.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Các nhà sư hiểu rằng thành tựu của Hoa Lư là bấp bênh bởi vì các vị vua Hoa Lư cai trị chủ yếu qua sự đe dọa dùng bạo lực, và cứ mỗi vị vua qua đời lại kéo theo một cuộc chiến giành ngôi. Các nhà sư trở nên không thể thiếu với tư cách là những người có học có thể giao tiếp với Trung Quốc và là người huy động lao động, của cải, và dư luận có lợi tại các khu vực đông dân nhất ở đồng bằng sông Hồng. Họ thấy thành tích quân sự của Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn sẽ không kéo dài nếu thiếu các thành tựu tương ứng trong tổ chức chính trị và phát triển văn hóa. Họ cũng thấy loại quyền lực ở Hoa Lư, hạn chế bởi tâm tính hiếu chiến, sẽ không thể đạt đến các mục tiêu này. Sử dụng khả năng thuyết phục, đưa các đồ đệ vào những vị trí quan trọng, và định hình dư luận, các vị sư cuối cùng đã thành công trong việc chuyển giao quyền lực tương đối êm ả sang cho một phe cánh mà có lẽ hoặc đã liên minh với các lãnh đạo Phật giáo hoặc đơn thuần là một cánh thế tục của Phật giáo.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Lý Công Uẩn sinh năm 974; được các vị sư nuôi dạy, ông có tiếng là một Phật tử sùng đạo, và là một người lính. Khi một vị vua mất lòng người qua đời ở Hoa Lư năm 1009, ông đang là chỉ huy cấm vệ quân. Được người bảo trợ, sư Vạn Hạnh, khuyên và giúp sức, cộng sự hỗ trợ của tầng lớp lãnh đạo Phật giáo, ông được đưa lên làm vua và vào năm 1010, chuyển thủ đô về nơi từng là trung tâm hành chính dưới thời Đường, đổi tên địa điểm là Thăng Long, vây quanh là các chùa chiền và đồng lúa của đồng bằng sông Hồng.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Trong 19 năm trị vì (1009-28), Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) dường như ấp ủ ba mối quan tâm. Trong những năm đầu, ông xây thủ đô, tổ chức hệ thống thuế, và dẫn quân hướng về biên giới phía bắc và nam, dập tắt các phe phản loạn và người vùng núi. Sau khi đã thiết lập quan hệ phù hợp với các quyền lực trên mặt đất, ông tỏ ra quan tâm việc thiết lập quan hệ với các quyền lực siêu nhiên. Ông bảo trợ cho đạo Phật và các tục thờ địa phương, và như thế đã nuôi dưỡng nền tảng văn hóa cho sự cai trị của mình. Trong những năm cuối đời, ông có vẻ rút khỏi việc triều chính để tu tâm và chuẩn bị cho ngày qua đời. Ông giao quyền lực cho những người con có tài, đặc biệt là thái tử Lý Phật Mã.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Có nhiều bằng chứng cho thấy Lý Công Uẩn quan tâm ý niệm phục hồi quan hệ hòa hợp giữa người cai trị với con dân, và giữa người cai trị với quyền lực siêu nhiên. Ông chỉ trích các vị vua Hoa Lư đã bỏ qua “ý trời”, “làm khổ nhân dân”. Ông ưa thích thời đại vàng son của nhà Thương-Chu khi nhà vua vâng ý trời và ý dân, và ông quyết tái lập sự hòa hợp đó dưới triều đại mình. Ông được nhớ đến như một người vừa quan tâm tôn giáo lại vừa xót thương nhân dân. Ông liên tục bỏ qua các khoản nợ thuế hoặc miễn thuế.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Các nhà viết sử Việt Nam nhớ đến ông như người đã “đem hạnh phúc nhân dân” và “có viễn kiến cho một triều đại lâu dài”. Mặc dù ông hăng hái tiến quân dọc các đường biên giới, đánh dẹp “phản loạn” và thành lập quan hệ cống nạp, ông có vẻ đã dung thứ cho các đặc quyền của các phe nhóm địa phương miễn là họ trung thành. Điều này chắc chắn là một cải thiện ‘hạnh phúc’ cho những phe nhóm địa phương khi so với chính thể cứng rắn Hoa Lư. Có vẻ Lý Công Uẩn không phải là một cá tính thật mạnh mẽ, và ông chịu nhiều ảnh hưởng của người thấy Vạn Hạnh, người qua đời trước ông chỉ ba năm. Tuy vậy, ông thực thi vai trò được giao của mình với tài năng rõ rệt, và vị trí của ông trong lịch sử cũng tăng cùng với bước tiến của triều đại mà ông sáng lập.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><b>Lý Phật Mã</b></span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Trong năm năm cai trị đầu tiên, Phật Mã tương đối phụ thuộc vào các cận thần có từ thời cha mình. Ông chứng kiến họ dập tắt cuộc nổi loạn của hai người anh muốn tranh ngôi, và dẫn đầu đoàn quân chống lại người anh phản loạn thứ ba tại Hoa Lư. Sau khi việc nối nghiệp đã chắc chắn, ông giám sát việc bổ nhiệm quan chức, tái tổ chức lực lượng cấm vệ quân, và cải tổ lực lượng sư sãi – đây là ba trong số bốn cột trụ chính tại thủ đô, cột trụ thứ tư là vai trò của các phụ nữ trong cung. Bên cạnh việc tham gia các lễ lạt phải có của một vị vua, ông còn dẫn quân bình định biên giới phía nam và bắc. Ông tỏ ra mình có khả năng, nhưng không thể hiện rõ cá tính của riêng mình.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Năm 1034, ông đổi niên hiệu và trong năm năm kế tiếp, thể hiện một phong cách cai trị đậm màu cá nhân mà đôi khi làm kinh ngạc và xúc phạm các cận thần. Ông sai các quan khi tâu việc trước mặt vua thì gọi vua bằng danh xưng tâng bốc hơn. Ông bỏ qua quy tắc và đưa một người thiếp lên làm hoàng hậu, vì vậy khơi nên một cuộc làm loạn mà bị ông dập tắt. Ông tổ chức lại việc quản lý vùng biên giới và xây thuyền vượt biển. Ông bỏ qua lời can gián của các quan mà tự mình cầm cày cày ruộng làm gương cho thiên hạ. Năm 1039, khi bày tôi khuyên ông đổi niên hiệu là Càn Phù Hữu Đạo, ông tranh luận gay gắt với họ và chỉ khi họ đã nài ép, ông mới nhượng bộ mà nghe theo. Trong những năm này, Phật Mã thường đi trước các cận thần, và không chịu thụ động chấp nhận lời khuyên của họ.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Cuộc tranh luận năm 1039 xoay quanh việc một chế độ tốt thì là kết quả của phẩm chất lãnh đạo cá nhân hay của sự tuân theo các quy tắc định sẵn. Phật Mã nhấn mạnh một triều đình tốt phụ thuộc nỗ lực của riêng ông với tư cách quân vương. Còn các cận thần có vẻ muốn hàn gắn sự khập khiễng giữa phong thái lãnh đạo sôi nổi của vị quân vương và bộ máy lộn xộn mà ông đang dẫn dắt. Việc họ nêu lên vấn đề thay niên hiệu là cách để thu hút sự chú ý của Phật Mã. Có vẻ Phật Mã dần hiểu ra ý này của các cận thần và tiếp sau đó là giai đoạn xây dựng thể chế, quan tâm đến luật pháp và tổ chức.</span><br />
<br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Thời kì cai trị dưới niên hiệu Minh Đạo, mặc dù ngắn ngủi (1042-4), nhưng lại quan trọng bởi vì vào lúc này khả năng lãnh đạo của Phật Mã đã đi cùng với bộ khung thể chế hỗ trợ cho ông. Các định chế được lập ra đủ khả năng chịu sức nặng của một ‘bàn tay sắt’. Hoạt động chính trong thời kì Minh Đạo là sự chuẩn bị cho cuộc hành quân dài 950 kilômét bằng đường biển hướng về thành phố của vua Chàm. Cuộc chinh phục Chămpa năm 1044 này, do Phật Mã đích thân dẫn dắt, là một thành công lớn. Phật Mã trở về với nhiều chiến lợi phẩm, mở đầu một thời kì thịnh trị.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Một niên hiệu mới đặt ra năm 1049, đánh dấu việc Phật Mã bắt đầu tuổi cao sức yếu và dựa nhiều hơn vào các lễ nghi nhà nước. Thời kì này chứng kiến cuộc nổi loạn của một chư hầu biên giới phía bắc và việc phát hiện âm mưu lật đổ trong triều. Những sự kiện này có vẻ khiến Phật Mã nghĩ nhiều hơn đến chuyện sinh tử và rằng, dù ông đã có thành tích gì, thì ông cũng không thể sống mãi, và cũng không tìm ra các giải pháp lâu dài giúp giải quyết vấn đề của chế độ. Ông bắt đầu tìm an ủi qua tôn giáo, xây chùa Một Cột với các khu vườn và hồ cá cầu kì. Những năm cuối cùng của ông chủ yếu thực hiện việc ban thưởng cho các quan, và vài tháng trước khi ông mất năm 1054, đã chuyển giao quyền lực cho người con Lý Nhật Tôn 31 tuổi.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Lý Phật Mã đã đặt triều Lý trên một căn bản thiết chế mà sẽ tồn tại hơn một thế kỷ. Phong thái lãnh đạo cá nhân của ông biểu trưng cho sự tách biệt khỏi những hạn chế mà sự vô chính phủ và chia rẽ đã gây ra trong thế kỷ thứ Mười với sự sụp đổ nền tảng nhà Đường. Con trai ông, Lý Nhật Tôn, là vị vua Việt Nam đầu tiên thời kì sau nhà Đường được nối nghiệp trong êm ả - dấu hiệu cho thấy Phật Mã đã thiết lập một định chế vương triều vững chắc.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><b>Lý Nhật Tôn</b></span><br />
<br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Dưới thời Lý Công Uẩn, một vùng đệm với cư dân là người miền núi đã phân cách khu vực chịu sự kiểm soát của Thăng Long và khu vực nằm trong quyền hạn của nhà Tống. Lý Phật Mã mở rộng quyền kiểm soát đối với vùng đệm này thông qua hành động quân sự và tục kết hôn với các tù trưởng địa phương, khiến quyền lực của Thăng Long đối diện với tiền đồn biên giới nhà Tống. Nhà Tống bày tỏ thái độ tương đối thụ động trước việc Phật Mã loại bỏ vùng đệm này bởi vì họ quan tâm nhiều hơn đến biên giới mặt bắc của nhà Tống và không muốn khích động vùng phía nam. Nhưng một số quan chức biên giới nhà Tống có thái độ cứng rắn hơn và thảo luận hành động quân sự chống Thăng Long trong lúc bí mật rèn quân địa phương và nuôi dưỡng người tị nạn, gồm cả lính đào ngũ, từ phía biên giới với Việt Nam. Sự trái ngược giữa thái độ ôn hòa của triều Tống với chính sách bí mật của một số quan chức biên giới đã khiến Lý Nhật Tôn mở cuộc tấn công phủ đầu dọc biên giới năm 1059, nói rằng ông ghét “nhà Tống phản phúc.” Sau một năm gồm các cuộc đánh nhau qua lại, hòa đàm diễn ra và một số quan chức Tống hung hăng bị bãi nhiệm, nhà Tống chính thức chấp nhận giải thích của Thăng Long. Nhưng diễn biến mới nổ ra, khi các quan chức biên giới của Tống âm mưu cùng Chămpa để gây sức ép với Thăng Long. Tuy vậy, chính sách chính thức của nhà Tống vẫn loại bỏ hành động gây hấn tại miền nam. Kết quả trong thập niên 1060, các quan chức vùng biên giới của Tống chia rẽ: một số muốn chinh phạt, trong lúc một số khác xem hành động quân sự là thiếu khôn ngoan. Trong lúc đó, Nhật Tôn cho phép các cận thần duy trì sức ép nơi biên giới và có vẻ không nhận thức về mối nguy hiểm trong quan hệ Việt-Hoa. Tình hình biên giới bất ổn sẽ chỉ nổ ra sau khi Nhật Tôn qua đời; ông có vẻ không quan tâm nhiều đến nó vì ông dành chú ý về hướng khác.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Mối quan tâm chính của Lý Nhật Tôn trong 12 năm cai trị đầu tiên là làm sao có con trai. Mãi đến năm 1066, vương phi Ỷ Lan mới hạ sinh con trai Lý Càn Đức. Đây là sự kiện quan trọng dưới triều Nhật Tôn. Trước đó, ông cứ chờ đợi, dường như bị trói chân trói tay vì nỗi sợ mình chết đi mà chưa có người nối dõi. Với việc Lý Càn Đức hạ sinh, ông như tự do, và sáu năm cuối đời của ông thể hiện dư âm của phong thái lãnh đạo mạnh mẽ của người cha. Ông quyết định lập lại cuộc chinh phục Chămpa của cha mình. Cả về mặt chiến thuật lẫn tâm lý, cuộc chiến Chămpa của Lý Nhật Tôn năm 1069 là sự lặp lại của chiến dịch của Phật Mã năm 1044. Một sự khác biệt là nếu năm 1044 vua Chàm bị hạ sát, thì năm 1069, mạng sống người này được tha. Phật Mã trước đó đang muốn thể hiện quyền lực của Thăng Long và không thể dung thứ; còn Nhật Tôn chỉ tái khẳng định uy quyền và có chỗ dung thứ cho một vị vua chiến bại.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Đằng sau các cuộc viễn chinh Chămpa là cuộc tranh đua uy thế trên đường biển Nam Trung Hoa. Thăng Long nhận thức sự quan trọng của biển và việc chế ngự bờ biển miền nam. Mặc dù nông nghiệp định ra quyền lực, nhưng thương mại nuôi dưỡng nó, và biên niên sử Việt Nam ghi lại những sự giao tiếp với thương nhân thế kỷ 11 từ các vùng khác ở Đông Nam Á, đặc biệt là Java. Chămpa nằm ở vị trí ngăn trở Thăng Long tiếp cận thị trường biển miền nam và có vẻ quả thật họ muốn ngăn trở. Người Việt nhìn về biển với sự khao khát và không ngại các cuộc chinh phạt quân sự đường xa.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Sự trị vì của Lý Công Uẩn, Lý Phật Mã và Lý Nhật Tôn thể hiện một thời kì đặc thù không chỉ trong sự phát triển của cơ cấu chính trị Việt Nam mà cả trong sự phát triển của đời sống văn hóa và tri thức. Bắt đầu từ thập niên 1040, phong cách lãnh đạo mang nặng tính cá nhân của họ được trợ giúp bằng một định chế vương triều sơ đẳng. Các hội thề trung thành với vua diễn ra hàng năm, và vua tổ chức các lễ sinh nhật lớn để ban thưởng cho những người quan trọng trong vương quốc. Có lẽ quan trọng không kém những đe dọa, lời thề và ban thưởng là sự phát triển của một quan niệm văn hóa Việt chung, một tiến trình mà ba vị vua đầu triều Lý đóng vai trò lớn.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Các vị vua này đều quan tâm các tập tục thờ cúng và muốn đưa các vị thần linh về phục vụ dưới trướng hoàng gia và Phật giáo. Họ tạo hình ảnh về bản thân như những người tài giỏi có khả năng giao tiếp với các đấng siêu nhiên. Phẩm cách của các vị vua này được xem như yếu tố kêu gọi thàn linh mang đến thịnh trị và sức mạnh quân sự cho vương quốc. Sau nhiều thập niên chịu sự chi phối của các triều Trung Hoa, đây là lúc tự phát hiện bản thân, là lúc các truyền thống bản địa được huy đông để thành lập một truyền thống Việt Nam chung gắn với thành tựu vương triều Lý. Quá trình phát hiện các tính chất văn hóa Việt Nam thể hiện một thái độ tự tin gắn với sức mạnh quân sự mở rộng. Thời kì để hoàng gia tìm ra định nghĩa thế nào là một người Việt Nam chấm dứt vào thập niên 1070 với cuộc va chạm quân sự với Trung Quốc và việc nhận ra các giới hạn mà cuộc va chạm này áp đặt.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><b>Biên giới</b></span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Khi Lý Nhật Tôn qua đời năm 1072, tại triều đình nhà Tống xuất hiện các chính sách mới của Vương An Thạch. Ông ủng hộ các hành động cứng rắn của các quan chức vùng biên giới ở phía Tây để ngăn chặn sức mạnh của các tù trưởng vùng núi; những hành động này đã thành công. Và ông có vẻ xem biên giới Việt Nam là trường hợp tương tự, và vì thế đồng ý việc chuẩn bị tiến binh tại đây.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Lý Càn Đức lên ngôi năm 1072 khi mới lên sáu. Khi người Tống đang chuẩn bị chinh phạt, chỉ huy nhà Lý, Lý Thường Kiệt, quyết định tấn công phủ đầu. Năm 1075, ông bất ngờ tấn công các tỉnh biên giới trên cả đường biển và bộ. Người Việt lúc đó cũng biết về các tranh chấp đang nổ ra nơi triều Tống, và đã để lại các biểu ngữ nhằm khơi gợi sự giúp đỡ của các đối thủ của Vương An Thạch trong triều đình.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Vương An Thạch, bị bất ngờ và giận dữ, ̣đã vội vã tổ chức cuộc chinh phạt, bỏ qua lời can ngăn của các đối thủ trong triều. Cuộc chinh phạt của nhà Tống 1076-7, không giống như các chiến dịch Trung Quốc trước thế kỷ 10, được dẫn dắt bởi các quan chức nhỏ thiếu sự chuẩn bị và cả uy quyền để giành phần chủ động. Thủy quân Tống không tiến sâu được vào mặt nước đất Việt; đoàn quân bị tắc ở đoạn sông cách Thăng Long nhiều dặm về mạn đông bắc, và rút lui sau ba tháng đánh nhau. Sau nhiều năm thương thảo, hai phía Hoa-Việt đồng ý về một biên giới chung – biên giới này về căn bản không thay đổi cho đến tận ngày nay.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Cuộc chiến đã buộc người Hoa thừa nhận Thăng Long như một dạng chư hầu đặc biệt không thể bị hủy diệt; nó buộc người Việt thừa nhận Trung Hoa như một quyền lực tốt nhất đừng chạm đến. Biên giới, được vẽ rõ ràng và được người Việt hiểu vừa là một giới hạn mà cũng là sự bảo vệ, là một khía cạnh bất thường trong việc tổ chức không gian chính trị ở Đông Nam Á, nơi mà các biên giới truyền thống chưa bao giờ cố định như thế. Bắt đầu từ đây, sự nhận thức về biên giới này, tầm quan trọng của việc bảo vệ nó và duy trì quan hệ với quyền lực bên kia biên giới trở thành một phần quan trọng trong nhận thức văn hóa người Việt.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Khi không có uy quyền cá nhân của một vị vua trưởng thành, các lãnh đạo Việt Nam, vào cao trào của khủng hoảng chiến tranh những năm 1075-7, hợp thức hóa các sự bổ nhiệm trong triều đình thông qua một loạt ‘kì thi’ để lựa chọn người thích hợp từ những ai biết đọc, viết. Những kì thi này có vẻ là hình thức bổ nhiệm trong thời nguy cấp, và không còn thấy bằng chứng về các kì thi như thế sau thập niên 1080. Những lãnh đạo trong triều thời kì này, Lý Đạo Thành (qua đời 1081), và đồ đệ Lê Văn Thịnh cố gắng nghi thức hóa định chế vương triều. Tuy nhiên cuối cùng Lý Càn Đức đã chấm dứt xu hướng đó, trục xuất Lê Văn Thịnh năm 1096 và tái lập phong cách lãnh đạo mang nặng chất cá nhân (vốn được mong chờ ở các vua Lý).</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Lý Càn Đức qua đời năm 1127. Ông không có con, và trong những năm cuối đời, phe nhà ngoại của người kế vị (cháu ông) giành uy thế trong triều đình. Kể từ đó, các vua Lý chỉ còn là đại diện cho các phe đảng nhà ngoại và là người giữ gìn các thành tích của các vua triều trước. Lúc này, các nguồn tư liệu Việt Nam nhấn mạnh vai trò các cận thần trung thành hơn là các vị vua tài giỏi. Trong thế kỷ 12, Thăng Long chống lại được sự xâm lấn của người Khmer và gia tăng vị trí trong mắt triều Tống. Nhưng bên trong nội bộ, sự đồng thuận của nhà Lý, từng dựa trên uy tín cá nhân của vua, đã phai dần. Diến ra một loạt tranh chấp giữa các phe họ ngoại của vua, những người này trấn giữ các khu vực khác nhau trong vương quốc. Đến đầu thế kỷ 13, Đại Việt đã lâm vào cảnh nội chiến kinh niên.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Triều đại nhà Lý có ba đóng góp lớn cho văn hóa truyền thống Việt Nam. Phật giáo được xem là thước đo hành xử cho cả vua và dân quan. Thứ hai, một tập hợp các vị thần bản địa được xác định là người bảo vệ quyền lực hoàng gia. Và thứ ba, một phiên bản lý thuyết chính trị Trung Hoa đã được Việt hóa được phát triển để khẳng định Thăng Long là ngai vàng của ‘hoàng đế nước Nam’ người trị vì ‘vương quốc phía nam’ theo mệnh trời. Thiên mệnh của vua Trung Quốc chỉ kéo dài đến biên giới, và biên giới được trời và các vị thần bảo vệ. Quan hệ triều cống với Trung Quốc được coi là lựa chọn thay thế duy nhất cho đối đầu và chiến tranh.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Dòng họ này đến từ bờ biển đồng bằng sông Hồng, và một yếu tố quan trọng cho thành công quân sự của họ là uy thế thủy quân. Trần Thủ Độ, kiến trúc sư nhà Trân, đã cố gắng sửa chữa những yếu kém trong hệ thống nhà Lý và ông thiết lập sự kiểm soát tập trung hóa chưa từng có đối với hoàng gia, triều đình và nền kinh tế.</span><br />
<br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><b>Nhà Trần củng cố</b></span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Để phá vỡ thế lực của các phe nhóm địa phương, thành viên họ Trần được cử làm thống lĩnh các khu vực chiến lược. Một loạt các điền trang hoàng gia phát triển, đẩy lùi thế lực địa phương ở đồng bằng sông Hồng, khiến nhà Trần kiểm soát nhiều thặng dư lúa hơn so với triều Lý. Trong việc tiêu diệt các đối thủ ở đồng bằng sông Hồng, nhà Trần đã thành công tới mức khi vương triều suy thoái vào cuối thế kỷ 14, một phe khác từ đồng bằng sông Mã, ở phía nam, mới xuất hiện để giành chính quyền.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Trong thập niên 1230. nhà Trần bắt đầu dùng hệ thống thi cử để tuyển lựa quan chức phục vụ một hệ thống hành chính kỷ luật hơn so với dưới triều Lý. Mặc dù nhà Trần sùng đạo Phật, từ đây cũng bắt đầu xuất hiện một tầng lớp sĩ phu, tuy còn ít, lấy cảm hứng tri thức từ Khổng giáo. Khi hoàng gia suy thoái trong thế kỷ 14, tầng lớp này tìm cách duy trì ổn định và cuối cùng xuất hiện lại trong thế kỷ 15 với tư cách là người phát ngôn cho quyền lực hoàng gia, và là người đưa ra các định nghĩa về đạo đức.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Kiểu chính sách tập trung hóa của Trần Thủ Độ đã là tài sản quý cho các thế hệ lãnh đạo sau đó khi Thăng Long đối diện quân Nguyên-Mông. Quân Mông Cổ chinh phục Vân Nam giữa thập niên 1250 và muốn xâm nhập Đại Việt để bao vây nhà Nam Tống. Nhà Trần chống lại trong mùa khô năm 1257-8 và buộc quân Mông lui về Vân Nam. Sau khi Khubilai Khan chinh phục Nam Tống cuối thập niên 1270, ông đòi Đại Việt quy phục. Lúc đó, vua Trần yêu cầu nhà viết sử viết bộ sử thể hiện rằng ông thừa hưởng vị trí vương quyền ngang với hoàng đế Trung Hoa và vì thế không buộc phải quy phục. Nhà Trần cũng quan tâm tới các vị thần bản địa được cho là có thể giúp chống quân xâm lược, và khi chiến tranh chấm dứt trong thập niên 1280, những vị thần này được phong tước của triều đình.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Trong những năm sau cuộc chiến chống Nguyên-Mông, nhà Trần mất dần khả năng lãnh đạo. Trần Minh Tông, người qua đời năm 1357, đã cưới một người họ Trần, nhưng cũng có con với hai phụ nữ của gia đình họ Hồ. Người đứng đầu họ này, Hồ Quý Ly, sau đó đã giành quyền lực và lên ngôi năm 1400. Hồ Quý Ly ngự trị trên sự sụp đổ của thế giới Phật giáo dưới hai triều Lý và Trần cùng sự xuất hiện chập chững của tầng lớp sĩ phu. Cố gắng chấm dứt sự bất ổn triền miên, ông được tiếng là nhà cai trị cứng rắn và độc đoán, và không lấy được lòng của các thành viên trong tầng lớp thống trị. Vua Minh Thánh Tổ không bỏ qua cơ hội can thiệp và vào năm 1406, quân Minh, lấy cớ giúp phục hưng nhà Trần, chiếm được Đại Việt. Trong hai thập niên sau đó, các quan chức Minh cố gắng biến Đại Việt thành một tỉnh Trung Hoa. Tuy vậy, chính sách của họ bị ngăn trở bởi ba sự mâu thuẫn mà rồi sẽ dẫn tới thất bại.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Thứ nhất, có một sự mâu thuẫn mang tính chiến lược trong chính sách Hán hóa của nhà Minh trong thời kì mở rộng biên giới; các cố gắng Hán hóa một dân số không tuân theo đã phá vỡ an ninh và trật tự - hai yếu tố vốn là mục tiêu của chính sách biên giới. Thứ hai, có sự mâu thuẫn hành chính giữa ý tưởng giáo hóa những người man di (ý tưởng này được sử dụng để biện minh cho việc chiếm đón) và việc bóc lột trong quá trình cai trị thực tế của người Minh; các quan chức nhà Minh được gửi sang Việt Nam có khả năng yếu kém đã phá hoại mục tiêu đề ra. Cuối cùng, là sự mâu thuẫn về tài chính giữa tài sản tham nhũng của các quan chức và sự thâm hụt ngân sách của chính quyền địa phương; quân viễn chinh tìm cơ hội ăn mảnh trong lúc thâm hụt ngân sách khiến cho trung ương phải liên tục bao cấp cho chính quyền ở Việt Nam. Những mâu thuẫn này, cộng thêm một cuộc kháng chiến mới của người Việt mà sẽ không thể vượt qua nếu không đầu tư thêm nhân lực, vật lực, đã khiến chính sách chiếm đóng bị buộc từ bỏ chỉ vài năm sau khi Minh Thánh Tổ qua đời năm 1424. Bài học cho người Trung Quốc là quan hệ triều cống tỏ ra khôn ngoan hơn chính sách chinh phục và đồng hóa.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><b>Hoàn thiện chính quyền</b></span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Sự chiếm đóng của nhà Minh và sự thành lập nhà Lê thường được xem là các cột mốc thay đổi trong lịch sử Việt Nam. Hiệu ứng của sự chiếm đóng không phải nhỏ. Ngoài việc nhà Minh hủy diệt các chùa chiền Phật giáo và nhiều di sản văn học Lý-Trần, tầng lớp người Việt có học cũng trải qua sự thách thức về tâm lý, bị buộc phải tái định nghĩa thế nào là người Việt Nam. Trật tự Phật giáo của nhà Lý và Trần đã bị quét sạch. Tầng lớp thống trị mới là sự kết hợp giữa phe quân sự từ các tỉnh miền nam và phe sĩ phu đi theo Khổng giáo. Xã hội Việt Nam có vẻ đã mất phương hướng sau nhiều thập niên bạo lực vì sự sụp đổ của nhà Trần và sự chiếm đóng của quân Minh. Điều này thường được xem là lý do khiến các vua đầu triều Lê thực thi một loạt cải cách dẫn đến một quan niệm hoàn toàn khác về cách thức cai trị dưới thời Lê Thánh Tông.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Nhưng triều đại Lê Thánh Tông lại nối tiếp bằng cuộc khủng hoảng mà còn sâu sắc hơn khủng hoảng trước đó, bởi vì nó tạo ra một điều mới trong lịch sử Việt Nam: các cuộc nội chiến kéo dài, chia rẽ nội bộ, và một biên giới mở rộng về phương nam. Có nhiều lý do để xem sự suy sụp của nhà Lê đầu thế kỷ 16 là một chỉ dấu về sự gián đoạn – chỉ dấu này còn sâu sắc hơn các khó khăn sau khi nhà Trần sụp đổ. So với mọi vị vua sau này, Lê Thánh Tông có nhiều điểm chung nhất với các vua Việt Nam trước đó. Ông ngự trị trên một vương quốc mà về mặt địa lý và sự toàn vẹn vương triều tương tự như thời của các vua Lý, Trần. Sau này, các vị vua Việt Nam không còn bao giờ được̣ yên tâm về một không gian ổn định như thế, không còn tận hưởng sự trung thành tuyệt đối của mọi người dân Việt.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Tuy nhiên, sự so sánh Lê Thánh Tông với các vua Lý, Trần dễ làm người ta lầm lẫn, vì nó khiến ta phủ nhận khả năng xem các thành tựu hành chính của triều đại Lê Thánh Tông thật ra lại là dấu hiệu của sự yếu đuối thay vì mạnh mẽ: một dấu hiệu cho thấy nền tảng văn hóa phổ quát của các vua Việt Nam, phát triển dưới thời Lý, Trần, đã sụp đổ và kể từ đó, quyền lực nằm trong tay một tầng lớp thống trị thiếu nền tảng ủng hộ từ dân chúng. Việc xây dựng bộ máy chính quyền tập trung có thể là một cố gắng giành lấy sự kiểm soát lạnh lùng với một xã hội mà đã không còn tuyệt đối ủng hộ giai tầng thống trị. Một cách phân tích như thế sẽ khiến Lê Thánh Tông trở thành một nhân vật thời kì chuyển tiếp – một con người mà nguồn gốc quyền lực nằm ở sự thông minh và uy tín cá nhân, chứ không phải ở các thành tựu tạo dựng thể chế của ông.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;">Bài viết của Keith Taylor về sự phát triển cơ cấu và tổ chức chính trị của Việt Nam dừng lại ở thế kỷ 15. Trong đoạn kết, Keith Taylor viết lịch sử đóng vai trò quan trọng với người Việt Nam, có lẽ bởi vì họ buộc phải so sánh quan hệ giữa họ với Trung Quốc, một quan hệ đòi phải có sự chú tâm đến quá khứ. Khi xem xét những gì được ghi nhớ và viết về các vương quốc Đông Nam Á khác (Chămpa, Angkor, Pagan, các vương quốc Thái thời kì đầu, Srivijaya và Majapahit), ta thấy lịch sử như kiểu Việt Nam ít quan trọng hơn đối với các vương quốc này. Điều này không có nghĩa là lịch sử ít ý nghĩa trong cái nhìn văn hóa của các dân tộc khác, nhưng nó hàm ý lịch sử các dân tộc khác được nhìn theo cách khác với cách người Việt nhìn về lịch sử của mình. Lịch sử Việt Nam chủ yếu là cuộc tranh luận về quan hệ Hoa-Việt, một câu chuyện với mục đích rõ ràng và cấp bách. Việc chấp nhận một lịch sử được viết ra cũng là một phần quan trọng trong việc làm người Việt Nam.</span><br />
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;"><br /></span>
<br />
<br />Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-3377754232689863887.post-41397698223953606562012-08-07T20:40:00.001-07:002012-09-24T03:53:42.586-07:00Lịch sử Ai Cập thời kì Tân vương quốc<div dir="ltr" style="margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;">
<b id="internal-source-marker_0.28971331962384284" style="font-weight: normal;"><br /></b></div>
<div dir="ltr" style="margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;">
<b id="internal-source-marker_0.28971331962384284" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-style: italic; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tác giả : Mark Healy</span></b></div>
<div dir="ltr" style="margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;">
<b id="internal-source-marker_0.28971331962384284" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-style: italic; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Minh họa : Angus McBride</span></b></div>
<div dir="ltr" style="margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;">
<b id="internal-source-marker_0.28971331962384284" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-style: italic; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xuất bản : Osprey Military</span></b></div>
<div dir="ltr" style="margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;">
<b id="internal-source-marker_0.28971331962384284" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-style: italic; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dịch : Hà Khánh</span></b></div>
<div dir="ltr" style="margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: right;">
<b id="internal-source-marker_0.28971331962384284" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-style: italic; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></b></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<b id="internal-source-marker_0.28971331962384284" style="font-weight: normal;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgkSlLzheV1OJnNYLQpYQLyvBJSJ1dx4K7Cxl3kS7qFWw6m1cVgqSHHpYqD2cyEmms0xqhrk_503pKkC4avEnI3i7745AGv4ITc7oSV-buQoAXyZghvE9EGKtIGf9AiDAeXWMbSKbRLaNM/s1600/1.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgkSlLzheV1OJnNYLQpYQLyvBJSJ1dx4K7Cxl3kS7qFWw6m1cVgqSHHpYqD2cyEmms0xqhrk_503pKkC4avEnI3i7745AGv4ITc7oSV-buQoAXyZghvE9EGKtIGf9AiDAeXWMbSKbRLaNM/s400/1.jpg" width="306" /></a></b></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<b id="internal-source-marker_0.28971331962384284" style="font-weight: normal;"><br /></b></div>
<div class="separator" style="clear: both;">
<span id="internal-source-marker_0.28971331962384284"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><b>Lời mở đầu</b></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nửa sau thiên niên kỷ thứ 2 trước công nguyên chứng kiến sự cạnh tranh quyết liệt giữa các thế lực nhằm thống trị khu vực duyên hải phía đông Địa Trung Hải hay còn được gọi là khu vực Levant. Cuộc tranh giành giữa các đế chế phản ánh tầm quan trọng về kinh tế của khu vực ngày nay là Syria và Lebanon nhưng cũng không hoàn toàn giải thích được sự chú ý liên tục của người Hittite, người Mitani và người Ai Cập. Điều này hoàn toàn đúng với thế lực sau cùng. Vương quốc của “hai vùng đất” đã chứng kiến lãnh thổ Levant sụp đổ ngay trong khu vực ảnh hưởng của mình. Dù sao với nhưng chiến dịch quân sự vượt xa bờ bắc sông Eurphrates nhằm chiếm lại những thành phố đặc biệt quan trọng về chiến lược như Tunip và Kades chống lại đầu tiên là vương quốc </span><a href="http://danhungtin.blogspot.com/2012/08/vuong-quoc-mitanni.html"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mitanni </span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">và sau đó là người </span><a href="http://danhungtin.blogspot.com/2012/08/van-minh-hittite.html"><span style="color: #1155cc; font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hittite</span></a><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> có thể xem như sự kế tục các chính sách có từ thời cổ và trung vương quốc. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các chính sách này bắt nguồn từ nhu cầu bảo đảm an ninh cho vương triều sau nhiều thế kỉ bị thống trị bởi những kẻ xâm lược-người Hyksos. Giai đoạn thống trị bởi người Hyksos gây ảnh hưởng đến người Ai Cập trong nhiều phương diện. Hậu quả lớn nhất là việc biến đổi Ai Cập trở thành một thành bang quân sự bởi những Pharaoh thuộc vương triều 18. Việc khai thác các tai nguyên nhằm tăng cường và trang bị cho một đội quân hùng mạnh kéo theo các chính sách hiếu chiến nhằm mở đường cho Ai Cập chuyển mình thành một quyền lực đế quốc. Việc quân sự hóa quốc gia Ai Cập trong bối cảnh ấy mở đường cho những yếu tố chính cho thời kì lịch sử tiếp theo- thời kì Tân vương quốc.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Bảng niên đại</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><i><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">(dựa theo quyển Cambridge Acient History , các năm là trước công nguyên)</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1674- Người Hyksos xâm chiếm AI Cập, vương triều thứ 18</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1570- Amosis trở thành Pharaoh</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1565- Amosis đẩy lùi người Hyksos</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1546-1526- Amosis I tiến quân vào Syria</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1525-1512- Tuthmosis đụng độ các lực lượng của vương quốc Mitanni ở sông Euphrates</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1512-1504- Tuthmosis II</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1503-1482 - Hatshepsut</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1504-1450- Tuthmosis III</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1482-Trận Megiddo. Từ 1482 Tuthmosis III tiến hành các chiến dịch hàng năm chống lại người Mitanni</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1450-1425- Amenophis tiếp tục đấu với người Mitanni. Các chiến dịch tại Syria và Canaan</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1425-1417 - Amenophis III</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1379-1362- Amenophis IV (Akhentanen), sự suy tàn của vương quốc Mitanni, sự trỗi dậy của vương quốc Tân Hittite dưới thời vua Suppiluliumas</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1364-1361- Smenkhkare</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1361-1352- Tutakhamun</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1352-1348- Ay</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1348-1320- Horemhab</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></i></span></div>
<div class="separator" style="clear: both;">
<b style="font-weight: normal;"><b style="font-weight: normal;"><i><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vương triều thứ 19</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1320-1318 Ramases I</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1318-1304 các chiến dịch của Seti I vào vùng Levant và Canaan</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1304-1237 Ramases II </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1300 Trận Qadesh</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1284 Hiệp ước hòa bình giữa Ai Cập và người Hittite</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1236-1223 Merneptah</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1222-1200 thời kì Turmoil</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></i></b></b></div>
<div class="separator" style="clear: both;">
<b style="font-weight: normal;"><b style="font-weight: normal;"><i><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vương triều thứ 20</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1200-1198 Sethnakhte</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1198-1166 Ramases III</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1200 - sự xâm chiếm của các bộ tộc trên biển, kết thúc của các thế lực cũ trong khu vực</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">1113-1085 Ramases IV . Kết thúc thời kì tân vương quốc</span></i></b></b></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<b id="internal-source-marker_0.28971331962384284" style="font-weight: normal;"><br /></b></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiEZfa5qvMeMfT0gwwUlDzHsvVQOzq-MxMiKErg5p1ud6WG6qJYJEHXl1lzNVSOP9Z2nzJkLR5UOhbHBlfAfl4JXqF9lN-A6zIV8UitJwRbFZgOdwEPCf6cqh7hEBtbdktP8gqfsNVsntA/s1600/558px-The_Levant_3.png" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiEZfa5qvMeMfT0gwwUlDzHsvVQOzq-MxMiKErg5p1ud6WG6qJYJEHXl1lzNVSOP9Z2nzJkLR5UOhbHBlfAfl4JXqF9lN-A6zIV8UitJwRbFZgOdwEPCf6cqh7hEBtbdktP8gqfsNVsntA/s400/558px-The_Levant_3.png" width="371" /></a></div>
<div dir="ltr" style="margin-bottom: 0pt; margin-top: 0pt; text-align: center;">
<b id="internal-source-marker_0.28971331962384284" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-style: italic; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">hình 1 :vùng lenvant</span></b><br />
<b style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-style: italic; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></b>
<br />
<div class="separator" style="clear: both;">
</div>
<div class="separator" style="clear: both;">
</div>
<div style="text-align: left;">
<span style="font-family: Arial; vertical-align: baseline;"></span><b id="internal-source-marker_0.13365687057375908" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự cai trị của người Hyksos</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự tìm hiểu về đế quốc Ai cập thời tân vương quốc phải được truy ngược về những phản ứng tự nhiên của dân Ai Cập trong thời kì bị cai trị bởi người Huksos suốt thời kì Trung vương quốc thứ 2 từ 1640-1532 BC. Sự hình dung truyền thống của người Ai Cập về người Hyksos như là một sự tái xâm nhập mạnh hơn của những tộc người Semite. Được nhấn mạnh bởi sự trang bị vũ khí đồng và chiến xa, sự đốt phá và nô dịch do người Hyksos tiến hành khắp vùng đất của hai vương quốc là một chủ đề lôi cuốn số đông. </span></b><br />
<b style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></b><span style="font-family: Arial; vertical-align: baseline;"><span style="font-size: 15px; white-space: pre-wrap;">Đây là cách lý giải dễ được chấp nhận để giải thích vì sao Trung vương quốc lại rơi vào tay những kẻ thống trị ngoại quốc. Tuy nhiên đây là một cách nhìn có vẻ sai lệch. Sự thật có lẽ ít kịch tính hơn nhiều.Cách gọi Hyksos lần đầu tiên được dùng (theo sử gia Do thái Josephus trong quyển Contra Apionem) bởi nhà viết sử Ai Cập Manetho. Nó gợi nên hình dung sai lệch của người Ai Cập về thời kì <i>hiau khasut</i> hay những kẻ thống trị ngoại quốc. Đây là cách gọi phản ánh thái độ của họ với kẻ xâm lược, trong đó khái niêm Hyksos đồng nghĩa với "lũ người". Triều đại của người Hyksos có thể xem như cao trào của một đợt sóng di dân và thâm nhập của người châu Á vào châu thổ sông Nile diễn ra từ trước vương triều thứ 12 và mở rộng vào vương triều thứ 13. Mang theo những đặc tinh văn hóa riêng biệt của mình nhưng người châu Á đã dần dần xâm nhập và khẳng định vị trí của mình trong xã hội Ai Cập lúc này trong trong gia đoạn suy tàn và rối ren vào thời kì cuối của Trung vương quốc. Vào 1720 BC họ đủ mạnh để chiếm được quyền điều khiển đô thành Avaris ở đông bắc châu thổ, địa bàn nhanh chóng trở thành thủ phủ của vương quốc Hyksos. Trong vòng 50 năm sau đó , Memphis thủ phủ cổ xưa phía bắc Ai Cập rơi vào tay họ.</span></span><br />
<span style="font-family: Arial; vertical-align: baseline;"><span style="font-size: 15px; white-space: pre-wrap;"><br /></span></span><span style="font-family: Arial; vertical-align: baseline;"><span style="font-size: 15px; white-space: pre-wrap;"> Như vậy, tiến trình nam tiến vào vùng châu thổ diễn ra một cách chậm chạp và cùng với đó là sự chiếm lĩnh các quyền lực bị suy yếu , điều này diễn ra mà không hề cần đến một ưu thế về quân sự nào. Khó có thể cho rằng người Hyksos có những ưu thế về công nghệ quân sự ngoại trừ chính sự suy yếu của người Ai Cập đã mang tới cơ hội thành công cho những kẻ xâm lấn. Ngoài ra, mặc dù đã ổn định ở hạ Ai Cập, người Hyksos cũng tránh tiến xa hơn về phía nam mặc dầu đã thu hẹp vương quốc ai cập đáng kể đến mức trở thành một quốc gia chư hầu. Khả năng hạn chế của họ trong việc quản lí một vùng đất lớn của Ai Cập là hậu quả của sự thiếu năng lực của các lực lượng quân sự.
Mặc dù tự xưng là những nhà cai trị hợp pháp của Ai cập thuộc vương triều thứ 15, những vua Hyksos vẫn còn những đối thủ cạnh tranh khác là những vua Ai cập thuộc vương triều thứ 17 - vương triều Theban. Một lãnh thổ mới được thiết lập tại Cusac, gần Asyut ngày nay ở miền trung Ai Cập vào năm thứ 3 dưới triều vua Kamose, pharaoh cuối cùng của vương triều thứ 17. Tuy nhiên quốc gia Ai Cập Theban tiếp tục bị suy giảm sức mạnh bởi sự đánh mất vùng Nubia nhiều tài nguyên và nhân lực cùng với sự mở rộng quyền lực của các lãnh chúa người Cush ở miền nam Nubia. </span></span><br />
<span style="font-family: Arial; vertical-align: baseline;"><span style="font-size: 15px; white-space: pre-wrap;"><br /></span></span><span style="font-family: Arial; vertical-align: baseline;"><span style="font-size: 15px; white-space: pre-wrap;">Những phát hiện khảo cổ chứng minh một nên văn hóa mộc mạc của vương triều Theban là một
bằng chứng, mặt khác thời kì hòa bình giữa Theban và người Hyksos cho phép sự giao lưu nối liền giúp cho người Ai Cập tiếp thu những kỹ nghệ mới mà người Hyksos mang đến từ vùng đất Palestine và xa hơn nữa. Cũng từ người Hyksos mà xuất hiện thành lũy Zebu ở vùng Ai Cập. Những hoa màu và ngũ cốc mới được gieo trồng cùng với sức sàn xuất được tăng đáng kể nhờ bánh xe và khung dệt vải đứng. Và đáng kể nhất là kỹ nghệ chiến tranh với công nghệ đồ đồng vượt trội của vùng trung đông so với trung Ai Cập. Dân dần vương quốc Theban đã hấp thụ được hầu
hết nhưng công nghệ mới như cách dùng bánh xe, vũ khí đồng và cung hỗn hợp những thứ vốn mang lại ưu thế cho nhưng kẻ thống trị họ.
Quan trọng nhất là những kinh nghiệm trải qua dưới sự thống trị của ngoại tộc đã phá vỡ nếp suy nghĩ truyền thống về sự ưu việt về văn hóa của Cổ và Trung vương quốc cũng như nâng cao sự cảnh giác của vương quốc trước những hiểm họa lân bang. Một hình dung rằng biên giới phía đông phải trở thành bất khả xâm phạm kéo theo các chính sách có tác động sâu sắc đến vùng Nubia và levant trong vòng 300 năm tiếp theo.
</span></span><br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<span style="font-family: Arial; vertical-align: baseline;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjJSFB5hhJFy080ODA9DnndewtsNdorquqkAc000w0Sn6A8zO65reQUVZ_cJnFEL6WVlyCfCUbsrYrmQ0z_nk3HwjwLIf3sSq3dg0iUum54WAYr9FsA9SqHhxyo4c6kmCQlcHhvhRFQrMw/s1600/2+3.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjJSFB5hhJFy080ODA9DnndewtsNdorquqkAc000w0Sn6A8zO65reQUVZ_cJnFEL6WVlyCfCUbsrYrmQ0z_nk3HwjwLIf3sSq3dg0iUum54WAYr9FsA9SqHhxyo4c6kmCQlcHhvhRFQrMw/s400/2+3.jpg" width="396" /></a></span></div>
<div style="text-align: center;">
<i style="font-family: Arial; font-size: 15px; text-align: left; white-space: pre-wrap;">hình 2: chiếu rìu tế lễ của pharaoh Amosis người sáng lập vương triều thứ 18 dân lên mẹ của mình là nữ hoàng Ahhotep. Ở giữa chiếc rìu khắc hình ảnh của Amosis hạ sát một kẻ thù, có lẽ là một chiếc binh Hyksos. Đầu rìu được mạ vàng và có niên đại khoảng 1570 BC.</i></div>
<span style="font-family: Arial; vertical-align: baseline;"><span style="font-size: 15px; white-space: pre-wrap;"><i>
hình 3: một trong những đóng góp đáng kể của người Hyksos vào văn hóa Ai cập có lẽ là kỹ nghệ vũ khí đồng, nhờ đó người ai cập có thể san xuất những vũ khi như thanh kiếm ngắn này để trang bị cho các chiến binh, nó có một gân đồng ở giữa để tăng độ cứng. Thanh kiếm trong hình có đuôi mạ vàng và có lẽ là một phần thưởng của Pharaoh cho sự dũng cảm</i>.
</span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; white-space: pre-wrap;"><br /></span><br />
<span style="font-family: Arial; font-size: 15px; white-space: pre-wrap;"><b>Chiến tranh giải phóng</b></span><br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<br /></div>
<span style="font-family: Arial; vertical-align: baseline;"><span style="font-size: 15px; white-space: pre-wrap;"><b id="internal-source-marker_0.13365687057375908" style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: medium; font-weight: normal; white-space: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuộc đấu tranh của triều Theban chông lại người Hyksos có lẽ bắt đầu từ vương triều của Seqenenre Tao II, người mà khảo cổ cho thấy hộp sọ đã chịu nhưng vết thương lớn mang đến cái chết trong một trận chiến. Con trai của ông, Kamos ,là người đã bắt đầu các chiến dịch giải phóng chống lại vua Hyksos là Apophis . Những tuyên bố này được Kamos ghi rõ lại trong văn bia kể về chiến dịch quân sự của ông chống lại người Hyksos, nó tuyên bố chiến tranh với người Hyksos cũng như bất cứ người Ai Cập nào hợp tác với người Hyksos “ ta sẽ đốt rụi nhà cửa của bọn mi, bởi tội lỗi của bọn bây gây ra khi phục vụ cho người Châu Á chống lại Ai Cập, những người chủ của bọn mi..” Thái độ dứt khoát đó cổ vũ tinh thần chống ngoại xâm và làm tăng sự oán giận chống lại những người hợp tác với kẻ thù. Sự thật thì nòng cốt quân đội của người Hyksos tập trung xung quanh đội quân chiến xa và một ít bộ binh. Phần nhiều trong quân đội của họ là bộ binh người Ai cập đến từ các tỉnh lị ủng hộ họ. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span></b></span></span><br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<span style="font-family: Arial; vertical-align: baseline;"><span style="font-size: 15px; white-space: pre-wrap;"><b id="internal-source-marker_0.13365687057375908" style="font-family: 'Times New Roman'; font-size: medium; font-weight: normal; white-space: normal;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh1WEQDE_4MCo50NasC36DQvtL19yllHOzA6tTiT31wR0pttjqRYk6KPleCxOdRg1wN3WfTDXcB-EHNtDl_M-sZ5dhc0WBTRxnKY40DquB2OlBKmH9qPPEIWu2CQAbLELHGXE6fkboewfQ/s1600/4.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="260" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh1WEQDE_4MCo50NasC36DQvtL19yllHOzA6tTiT31wR0pttjqRYk6KPleCxOdRg1wN3WfTDXcB-EHNtDl_M-sZ5dhc0WBTRxnKY40DquB2OlBKmH9qPPEIWu2CQAbLELHGXE6fkboewfQ/s400/4.jpg" width="400" /></a></b></span></span></div>
<div style="text-align: center;">
</div>
<span style="vertical-align: baseline;"><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><i>Hình 4 : Nubia là xứ rất quan trọng đối với Tân vương quốc như là nguồn cung cấp vàng và các nguyên liệu thô khác. Đây cũng là nơi cung cấp nguồn nhân lực cần thiết khi tuyển quân. Người Medjay tương tự như những tù nhân Nubia được mô tả ở đây được sử dụng rộng rãi trong quân đội của Kamose trong những đơn vị dùng cho trinh sát hoặc tập kích.</i></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chiến dịch mà Kamose tiến hành vào năm thứ 3 nắm quyền là một kiểu tập kích đường thủy truyền thống của người Ai Cập trong đó sử dụng nhiều lính đánh thuê Nubia hay còn gọi là lính Medjay bố trí hỗ trợ trên bờ . Lính medjay đã được sử dụng rộng rãi như là bô binh nhẹ hoặc quân trinh sát kể từ đầu thời kì cổ vương quốc và đóng vai trò tiền quân trong cuộc tấn công của người Theban vào thành lũy Nefrusy của người Hyksos. Cuộc đột kích này của Kamose có lẽ được tiến hành bất ngờ do sự thiếu chứng cứ về sự đụng độ một lực lượng lớn quân đội của người Hyksos. Kamose đã chiếm được rất nhiều thuyền đầy ắp vũ khí mà ông dùng để chèo thẳng đến tấn công thủ phủ Avaris phái đông châu thổ. Ngược với những tuyên bố hoành tráng của Pharaoh về sự huy hoàng của chiến dịch, nó không mang lại yếu tố quyết định trong chuộc chiến tranh với người Hyksos và phải đến em trai của ông là Amosis mới hoàn tất công cuộc giải phóng Ai cập khỏi sự cai trị của người Hyksos. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau khi đánh bại các lực lượng Ai cập ủng hộ triều Hyksos, Amosis tiến chiếm Memphis trước khi tung lực lượng tiến vào phía đông châu thổ để bao vây thủ phủ Amoris. Theo sau cuộc tấn công bằng đường thủy là một đợt vây hãm kéo dài. Chứng cứ cho ta thấy được bản chất thủy bộ phối hợp của chiến dịch đến từ những mô tả được ghi lại từ một chỉ huy chiến thuyền, Ah-mose, con của Elben “ ...tôi được điều đến chỉ huy chiến thuyền Phương Bắc vì lòng dũng cảm,và do đó tôi được vinh dự đồng hành cùng tấn tối cao - sự sống, phồn vinh và sức khỏe- trên đôi chân để tháp tùng ngài trên chiến xa trong những chuyến du ngoạn”. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ở đây chúng ta thấy được bằng chứng đầu tiên về việc người AI cập sử dụng chiến xa. Từ đó suy ra người Ai cập đã nhanh chóng tái chiếm toàn bộ khu vực lãnh thổ phía bắc . </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vì chiến công thống nhất hai vùng đất mà Amosis được các thế hệ sau này vinh danh như người sáng lập nên vương triều thứ 18. Với việc đánh đuổi được người Hyksos, Amosis đã thiết lập nên một vương quốc hùng mạnh nhất vùng trung cận đông. Kế thừa những ảnh hưởng của người Hyksos, Amosis giờ đây là chủ của một đế quốc bao gồm cả các thành bang ở vùng Palestin và Syria, những nơi đã vinh danh ông ta bằng một đợt thao diễn quân sự mà làm ông ta hành quân xa phía bắc đến tận vùng Djahy (thuộc Phoenicia) ít năm sau đó. Có một sự chấp nhận ngầm rằng những vùng châu Á xa tới tận sông Euphrate nay chịu ảnh hưởng của người Ai cập . Khả năng quân sự vươn xa tới vùng biên giới phía đông là phương án phòng thủ hiệu quả nhất cho đế chế và trở thành chính sách chính của vương triều Ai cập để đối phó với vùng Levant, nó cũng giải thích cho sự dính líu của Ai cập đến lịch sử vùng đất này trong vòng 400 năm tiếp theo . Chính sách đó cũng kéo theo sự duy trì một quân đội thường trực và sự tái tổ chức quốc gia để có thể cung ứng cho những chiến dịch quân sự lớn hơn. </span></span><br />
<span style="vertical-align: baseline;"><span style="font-family: Arial;"><span style="font-size: 15px; white-space: pre-wrap;"><br /></span></span></span><span style="vertical-align: baseline;"><b id="internal-source-marker_0.13365687057375908" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thời kì tiếp sau đó là giai đoạn xây dựng lại nên kinh tế và tập trung quyền lực nhằm chuyển hóa Ai cập thành một quốc gia quân sự, có khả năng duy trì một quân đội hùng mạnh và một chính sách đế quốc vươn tay tới tận vùng Palestine và xa hơn nữa đã được thiết lập.</span></b> <span style="font-family: Arial;"><span style="font-size: 15px; white-space: pre-wrap;"><br /></span></span></span><br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<span style="vertical-align: baseline;"><span id="internal-source-marker_0.13365687057375908"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgBTiistrYPlqu68QUoFHSpg4swxBtNvuUFHukCFRIeXPXsuwplxPSaHBnt36C4TEO0nvwvVyYT3xQ7NqEjKOEGxcBpv_1PdjG_HB8q8t4Nxg2f3AFSX5fTk09ewlK3p4YiNM2bfPQp4jM/s1600/5.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="213" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgBTiistrYPlqu68QUoFHSpg4swxBtNvuUFHukCFRIeXPXsuwplxPSaHBnt36C4TEO0nvwvVyYT3xQ7NqEjKOEGxcBpv_1PdjG_HB8q8t4Nxg2f3AFSX5fTk09ewlK3p4YiNM2bfPQp4jM/s400/5.jpg" width="400" /></a></span></span></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<span style="vertical-align: baseline;"><br /></span></div>
<div style="text-align: center;">
<i style="font-family: Arial; font-size: 15px; text-align: left; white-space: pre-wrap;">Hình 5: dù được mô tả là đạo quân hộ tống cho đoàn thuyền mà Hatshepsut gửi đến vùng đất “land of Punt” , hình ảnh trên cho thấy nòng cốt của lực lượng AI cập của tân vương quốc là những bộ binh và cung thủ. Họ được trang bị giáo và rìu chiến bằng đồng, được che chắn bởi khiên ngắn vát tròn. Một chiến sĩ phía sau vị chỉ huy thì mang một cây cung hỗn hợp.</i><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; text-align: left; white-space: pre-wrap;"> </span></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
</div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<br /></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<br /></div>
<span style="vertical-align: baseline;"><b id="internal-source-marker_0.8907002313062549" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những giới hạn của cuộc chinh phục</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong lúc vẫn có những bất đồng nhỏ giữa các học giả về việc liệu quân đội Ai cập có được triển khai ở Nubia dưới thời Amephosis I thì đến triều đại của Amosis các bằng chứng là không rõ ràng về việc các chiến dịch của ông này được thực hiện ở nơi nào trong vùng Syria và Palestine. Tuy nhiên, người ta cho rằng quân đội Ai Cập đã viễn chinh xa tới tận thành phố Tunip bên bờ sông Orontes. Nếu điều đó là sự thực thì nó chứng tỏ Ai Cập đã cố gắng kiểm soát địa điểm này chống lại các mối đe dọa đến từ vương quốc Mitanni của người Huririan, quốc gia đang đẩy mạnh việc chinh phục vùng Syria, khu vực mà người Ai Cập đang thừa nhận chủ quyền. Những Pharaoh kế vị sau cái chết của Aphemosis I vào năm 1625 BC đã ý thức rất rõ về việc quyền lực và sự an ninh của đế chế đi đôi với việc duy trì và triển khai một quân đội có thể phòng vệ được những khu vực trọng tâm. Quân đội lúc này thật sự được phát triển và giữ vai trò quan trọng trong xã hội Ai Cập hơn bất cứ giai đoạn nào khác trong lịch sử của cổ và trung vương quốc. Việc này cũng tác động lớn lao đến bản thân các chính sách ở trong nước trong vài thế kỉ tiếp theo. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiyOJiEFWG567rAsZuyMMSkIrstHiKjT4I8jHRPzTU6tKmvD-MdptCtKGn-I_SmHf1pTHtRyxIo2onEpj0hE4zqaiX-YHHos5CYf46nJRiBZF4wUBcQsmJbLl-9VZs9UQXBVgNtOl6tBNs/s1600/6-7.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" height="260" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiyOJiEFWG567rAsZuyMMSkIrstHiKjT4I8jHRPzTU6tKmvD-MdptCtKGn-I_SmHf1pTHtRyxIo2onEpj0hE4zqaiX-YHHos5CYf46nJRiBZF4wUBcQsmJbLl-9VZs9UQXBVgNtOl6tBNs/s400/6-7.jpg" width="400" /></a><br /><i><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 7 : Vũ khí của bộ binh Ai Cập đầu vương triều thứ 18. Vũ khí tấn công chủ đạo là cây búa đồng. Thanh dao dài bằng đông bên trai là vũ khí trong gia đoạn chuyển tiếp trước khi quân Ai Cập chuyển hẳn sang dùng kiếm dài do chịu ảnh hương từ lính đánh thuê Sherden đến từ biển.</span></i></b></span><br />
<span style="vertical-align: baseline;"><b style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><i><br /></i></span></b></span>
<span style="vertical-align: baseline;"><b style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><i>Hình 8 : Những thanh ném này là một trong những vũ khí cổ nhất được quân Ai cập sử dụng. Mặc dù đơn giản nhưng lại rất hiệu quả nên chúng được sử dụng phổ biến trong quân đội Ai cập cho tới tận thời kì tân vương quốc</i>.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thời kì Tuthphosis I kế tục thì vương quốc chứng kiến sự bùng nổ các hoạt động quân sự của Ai cập và vị Pharaoh mới đã mang quân chinh chiến thường xuyên hơn tất cả những gia đoạn lịch sử trước đó. Vị pharaoh này đã đạt tới những giới hạn lạnh thổ mà quân đội AI cập có thể chinh phục được. Dù Tuthphosis I không gọi chính thức kẻ thù là ai nhưng hình thức mà ông ta sử dụng , Naharin về sau được quân đội ai cập sử dụng để gọi người Mitanni. Một bia đá được ông ta cho tạc ở bờ sông Euphrate như một tuyên bố chủ quyền của Ai cập trên bờ nam con sông, nó miêu tả ông ta đcó những thành công khi đối đầu với quyền lực mới này . Bức mô tả này nằm vào khoảng 1300km cách xa AI cập là cực xa nhất phía bắc, ngược về phía nam Tuthphosis đã hành quân tới tận Kurgus ở Nubia cách Thebes 800km ngược lên con thác thứ tư của thượng nguồn sông Nile. </span></b> <i style="font-family: Arial; font-size: 15px; white-space: pre-wrap;">
</i><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhYNCk4A70wOPvrXWJ1tdk1xZfuAs-F-RfVy9MsLwqnVylVo1maIC6ZacVh3lh2c0YbBJsZjHkHqw1PzIM4YMiHLJuDFCoil3B0JCi5F19t31kuYUlgVAzQkyhh9LLw8V-N3uxo8Rr4bqs/s1600/EgyptianEmpire.gif" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhYNCk4A70wOPvrXWJ1tdk1xZfuAs-F-RfVy9MsLwqnVylVo1maIC6ZacVh3lh2c0YbBJsZjHkHqw1PzIM4YMiHLJuDFCoil3B0JCi5F19t31kuYUlgVAzQkyhh9LLw8V-N3uxo8Rr4bqs/s400/EgyptianEmpire.gif" width="323" /></a> </span><br />
<span style="vertical-align: baseline;"><br /></span>
<span style="vertical-align: baseline;"><b id="internal-source-marker_0.8907002313062549" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cần nhấn mạnh giới hạn của việc chinh phục không phải nhằm mục đích chiếm đóng lãnh thổ. Amosis cho phép các thành bang ở Syria và Palestin quyền tự trị chừng nào họ còn chịu cống nạp cho AI cập. Ý nghĩa lớn nhất của những đợt hành quân trên chỉ là chứng tỏ uy quyền của Ai cập nhằm duy trì lòng trung thành của các lạnh thổ phụ thuộc và đề phòng trước bất kì mối đe dọa nào khác đến từ bên ngoài. Phải đến cháu trai của Tuthphosis thì các chính sách về lãnh thổ của Ai cập mới được củng cố như là một quyền lực đế chế. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong suốt thời kì của Amenophis I hay Tuthphosis I thì người Metanni vẫn chưa đủ sức để thách thức chủ quyền của AI cập ở Syria và Palestien. Bước vào vương triều của Tuthphosis III, thách thức từ người Metanni ngày càng lớn và Ai cập phải lựa chọn giữa từ bỏ những chư hầu hoặc đẩy mạnh các biện pháp hiếu chiến và chuyển mình thành một đế chế. </span></b>
</span><br />
<span style="vertical-align: baseline;"><br /></span>
<span style="vertical-align: baseline;">
</span></div>
</div>
<b id="internal-source-marker_0.19180444115772843" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vương quốc Metanni</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tiền thân của vương quốc Metanni được hình thành từ sự tập hợp các thành bang nhỏ phía bắc vùng Lưỡng hà vào khoảng nửa sau thế kỷ 16 BC. Trung tâm của vương được đặt ở khu vực sông Habur, nơi tọa lạc của thủ phủ Washukkani mà vị trí chính xác còn chưa được xác nhận. Trong khi dân số và văn hóa của các thành bang này đa phần là người Hurrrian thì việc xuất hiện các tên gọi có gốc Ấn-Âu cho thấy giai cấp quý tộc thống trị với quân đội có chiến xa không phải là cư dân bản địa. Tên của những vị thần được thờ cúng bởi giai cấp này không thuộc về văn hóa Hurrican mà có sự tương đồng sâu sắc với giống dân Arryan chinh phục Ấn Độ. Những kẻ thống lĩnh nhờ những ưu thế trội hơn về quân sự bởi chiến xa và ngựa chiến có những tên gọi chỉ ra điều ấy. Một ví dụ như tên của vua Tushratta của người Mitanni cùng thời với Pharaoh Amenophis có nghĩa là “kẻ sở hữu những chiến xa dữ tợn “ và Birishdashwa có nghĩa “ những chiến mã hùng mạnh”. Nói chung tầng lớp quý tộc này được xem như là những mariyannu , có nghĩa là những chiến sĩ trẻ. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự đóng góp của người Mitanni vào lịch sử chiến tranh Trung Đông là không thể bỏ qua. Dù họ không phải là người mang đến những chiến xa vào vùng đất này nhưng chính sự triển khai chiến thuật thứ vũ khí mới cùng với việc tăng cường trang bị giáp cho ngựa và kị sĩ đã tác động đến không chỉ quân đội Ai cập mà còn cả người Hittite và Assyria. Dù áo giáp vảy và phiến đã được người Hurrian phát minh từ khoảng thế kỉ 17 BC thì việc trang bị rộng rãi là ở những chiến binh mariyannu của vương quốc Mitanni. Những chiếc áo đầy đủ của một chiến binh hoàng gia mariyannu cao quý thật sự rất giá trị và cầu kì trong chế tạo (hình 9), trở thành một tiêu chuẩn thước đo mà các dân tộc khác trong khu vực đã học tập theo. Ảnh hưởng của người Mitanni rất rõ trong áo giáp của cung thủ chiến xa AI cập (hình 10) . Sự tôn trọng của người Ai cập với trang bị của chiến binh mariyannu dẫn tới việc cướp bóc chiến lợi phẩm thường xuyên trong những chiến dịch của họ ở Palestine và Syria. Điều này thấy rõ hơn khi các chiến xa và thiết bị kèm theo chiếm một phần lớn trong số quà cưới được gửi bởi vua Artanama đến pharaoh Tuthmosis IV khi một hôn ước được thực hiện đánh hiệp ước đình chiến giữa hai vương quốc vào đầu thế kỉ 14 BC. Chắc chắn không có gì ngạc nhiên khi người AI cập quan sát cẩn trọng quyền lực mới đang lớn mạnh với một dự báo xung đột không thể tránh khỏi.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ngoài người Metanni thì các thành bang khác của người Hurria hoặc không phải Hurria thuộc khu vực Syria đều nhanh chóng tiếp thu mô hình chiến sĩ miriyannu và hệ thống kỹ thuật quân sự đi cùng. Điều này giải thích vì sao pharaoh Tuthmophis III phải đích thân tiến hành tổng công 17 chiến dịch trong vòng 20 năm để kiểm soát Syria và Palestine. </span></b>
<br />
<b style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></b>
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgRH3OV8fTp0SHQmG2mn_G6srrYJdBebkgY9da2HiOZzzrqj9RsI6NstTcaIAM_qEo9r0M997K1Io1Fxn3GjrD2pl9wWf4N8B2wTWGjKRrKwxNRjW8evJIPObzCLL0RuwRNdGjPck5r6MI/s1600/9-miriyannu.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="473" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgRH3OV8fTp0SHQmG2mn_G6srrYJdBebkgY9da2HiOZzzrqj9RsI6NstTcaIAM_qEo9r0M997K1Io1Fxn3GjrD2pl9wWf4N8B2wTWGjKRrKwxNRjW8evJIPObzCLL0RuwRNdGjPck5r6MI/s640/9-miriyannu.jpg" width="640" /></a></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjMWek6iwHAzy52FDzseUDaLQKPbJ7Y8h4N5dW5UOKOFTbd8Euzt9fPKTeHLTz7evo5AKt4TNvMKkAF-CcU5PjULjqL_3MJJKyje1NXAwa78siDkAbtlgtkcx08lvnDMd2MDrsJgqj8AOc/s1600/10-egypt-archer.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="483" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjMWek6iwHAzy52FDzseUDaLQKPbJ7Y8h4N5dW5UOKOFTbd8Euzt9fPKTeHLTz7evo5AKt4TNvMKkAF-CcU5PjULjqL_3MJJKyje1NXAwa78siDkAbtlgtkcx08lvnDMd2MDrsJgqj8AOc/s640/10-egypt-archer.jpg" width="640" /></a></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<i>hình 9 : áo giáp và chiến xa của chiến sĩ mariyannu</i></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<i>hình 10: giáp của cung thủ chiến xa Ai cập thời kì đầu của Tân vương quốc</i></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<br /></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: left;">
<b id="internal-source-marker_0.08565833675675094" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trở thành đế chế</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Suốt thời kì của Tuthmophis I và Amenophis I thì người quyền lực của người Metanni mới chỉ hình thành. Ảnh hưởng của Ai cập ở vùng levant là chủ đạo nhưng bắt đầu có chiều hướng uy giảm vào thời kì Tuthmophis II và Hashepsut. Suốt 20 năm trong thời trị vị của Hatshepsut quân đội AI cập chưa từng tiến vào vùng Levant và hậu quả là việc suy giảm đáng kể lượng cống phẩm đến từ các thành bang ở vùng này. Nắm bắt cơ hội này người Mitanni đã nhanh chóng mở rộng lãnh thổ toàn bộ khu vực cho tới tận bờ biển địa trung hải , trở thành chủ nhân mới của toàn bộ các thành bang chư hầu của Ai cập trước đây . </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự suy giảm quyền lực của Ai cập thấy rõ trong việc nhà vua xứ Quadesh từ vùng Orontes tiến vào mở rộng lãnh thổ ở vùng Syria và tiến vào nam Palestine mà hoàn toàn không bị ngăn cản. Nghe tin hoàng hậu Hatshepsut băng hà vào năm 1482 BC, ông này thành lập một liên minh các thành bang Syria tiến quân thách thức Ai cập ở Canaan bằng việc bao vây đô thành Megiddo. Chúng ta phải cho rằng nhà vua xứ Quadesh phải được sự hậu thuẫn ngấm ngầm hoặc công khai của lãnh chúa của ông ta ở Washukkani để tiến hành hành động khiêu khích này. Thành phố bị bao vây có một vị trí chiến lược nằm trên tuyến đường giao thương chính từ AI cập đến Lưỡng Hà. Đây không chỉ là sự đe dọa trực tiếp đến mối lợi kinh tế mà hành vi táo bạo trên cho thấy nếu không kịp phản ứng nhanh Ai cập sẽ không chỉ đánh mất toàn bộ ảnh hưởng của mình trong khu vực mà sự an toàn biên giới phía đông của đế chế cũng bị đe dọa.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuthmophis III đã có sự thay đổi những chính sách ngoại giao theo chiều hướng cứng rắng như một sự đáp trả và những chiến dịch quân sự được tung ra để thi hành đánh dấu một chiến lược rõ ràng giờ đây được Ai cập theo đuổi. Các chính sách cũ của Ai cập cho phép các thành bang Syria nạp cống phẩm đòi hỏi phải duy trì những được thao diễn quân sự hàng năm ở vùng này. Thiếu vắng những hoạt động như vậy Ai cập khó lòng giữ được sự trung thành của các thành bang vốn rất lộn xộn tại đây, đặc biệt là khi họ phải đương đầu với một quyền lực thật sự mới nổi lên từ người Mitanni. Người Mitanni đã lên kế hoạch thế chân quyền lực của Ai cập bằng cách khai thác những điểm yếu của đế chế.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuthmophis III hẳn đã nhận thấy Ai cập cần phải có sự thay đổi hoàn toàn về chính sách. Việc buông lỏng sự quản lí không được đáp đền cần đến một chính sách khác. Palestine và Syria phải được đặt dưới sự kiểm soát, sự cần thiết của quân đồn trú chống nổi loạn Quyền cai trị các đô thành được đặt dưới sự quản lí của pharaoh. Các lãnh chúa chư hầu phải cống nạp con trai đến Ai cập để làm con tin. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> Tuy nhiên Tuthmophis hẳn là không có ý định chiếm đóng toàn bộ khu vực bằng quân sự. Đó là một hình thái đế quốc nằm ngoài khả năng cung ứng và vận hành của nhà nước Ai cập. Theo nghĩa đó hình thái đế chế của nhà nước Ai cập và các thành bang chư hầu khác với ý nghĩa khi dùng để miêu tả đế chế La mã sau này. Có thể nói Ai cập không quan đến lãnh thổ của các chư hầu. Các chiến dịch quân sự của Tuthmophis tung ra chỉ nhằm mục tiêu kiểm soát lãnh thổ để đảm bảo an ninh và thu lợi ích kiểu sắt sữa bò thông qua các công phẩm hằng năm. Bởi vì Tuthmosis III đã nhìn nhận người Mitanni là một đối thủ không thể bỏ qua nên ông ta đã có những chiến dịch khôn ngoan từng bước một tiến tới một cuộc chạm trán giữa 2 quyền lực mà ông ta đã chuẩn bị trước.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cái chết của Hatshepsut đưa Tuthmosis lên ngai vàng vào năm ông ta 22 tuổi. Trước sự nổi loạn của liên minh, ông này đáp trả một cách cẩn trọng nhưng nhanh chóng là thân chinh mang quân đối đầu với kẻ địch. Dưới sự chỉ huy của vị pharaoh cứng rắng và quyết đoàn ,được ca tụng như một trong những pharaoh vĩ đại nhất của Ai cập, quân đội mặc dầu đã lâu không hoạt động vẫn được vũ trang và luyện tập tốt để đối mặt với kẻ địch. Trên hết , Ai cập lúc này đang khát khao lấy lại những vinh quang cũ bằng cách tiêu diệt những kẻ thách thức, một đế chế cần một quân đội mạnh mẽ được rèn luyện trong chiến tranh.</span></b>
</div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<br /></div>
<b id="internal-source-marker_0.08565833675675094" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quân đội đế chế</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thống lãnh của quân đội Ai cập là pharaoh, người nắm giữ mọi quyền hành của chính phủ và là chủ của toàn thể đất nước. Tính chất to lớn mặc nhiên của quyền lực này được phản ánh torng các văn bia của các pharaoh vương triều 18 và 19 trong đó miêu tả pharaoh như là thần mặt trời, thần chiến tranh và biểu trưng cho cả ai cập. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sự chuẩn bị cho vai trò này được tổ chức từ rất sớm, thái tử sẽ được giáo dục về nghệ thuật quân sự bởi những cưu binh được đích thân pharaoh chỉ định. Việc học tập bao gồm tất cả nghệ thuật chiến tranh bao gồm từ sử dụng vũ khí và tàu chiến đến chiến thuật và chỉ huy. Trong một xã hội đề cao sự dũng cảm thì khả năng điều khiển chiến xa và cung tên của các pharaoh rất được tôn sùng. Thật sự thì bản thân Tuthmosis II, Amenophis II và những người kế tục rất tự hào về khả năng sử dụng những vũ khí trên, những thứ rõ ràng là rất hữu dụng khi chi huy toàn quân trong chiến trận. Điều này khiến các pharaoh không chỉ điều quân khiển tướng mà còn trực tiếp tham gia trận chiến. Tuthmosis III, Amenophis II và Ramase II là những Pharaoh nổi tiếng vì trực tiếp chỉ huy quân đội trên chiến xa và lòng dũng cảm của họ là điều không cần bàn cãi.</span></b><br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh8bdhPOuV8p71-y9tLFmbQzK2XHev9a5Wg24Zkz3dlXRjFXX-SVwLXw53qCOZJXkeTXWkTaguRli8uD_YoRf7NsWBah0EyohoK7lR719OqGKmSSZGVCsQEtQeV07wO19QsQY-B6JDdPCc/s1600/khopesh.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="251" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh8bdhPOuV8p71-y9tLFmbQzK2XHev9a5Wg24Zkz3dlXRjFXX-SVwLXw53qCOZJXkeTXWkTaguRli8uD_YoRf7NsWBah0EyohoK7lR719OqGKmSSZGVCsQEtQeV07wO19QsQY-B6JDdPCc/s400/khopesh.jpg" width="400" /></a></div>
<b style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><i>hình 9 : thanh gươm đồng quodesh, tên gọi xuất phát từ hình dáng đặc trưng cong như cẳng động vật được sử dụng rộng rãi trong quân đội của các pharaoh thời kì tân vương quốc.</i></span></b><br />
<b style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><i><br /></i></span></b>
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiHcKqtMY52hpwhADUMQqfqKeewqKZw8eA4VtrUcbAzrq2104Xsf7_BzfJNayYNQekqjdkYM1knk6Q2jLRBXN74CEzjLl5SLTCgt-fePMkENS8CpDLM0gHrfOS4ko6-oeDPHB_N-JmfdYQ/s1600/10+aaa.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="245" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiHcKqtMY52hpwhADUMQqfqKeewqKZw8eA4VtrUcbAzrq2104Xsf7_BzfJNayYNQekqjdkYM1knk6Q2jLRBXN74CEzjLl5SLTCgt-fePMkENS8CpDLM0gHrfOS4ko6-oeDPHB_N-JmfdYQ/s400/10+aaa.jpg" width="400" /></a></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<b id="internal-source-marker_0.08565833675675094" style="font-weight: normal; text-align: start;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><i>hinh 10 : bản khắc đá này miêu tả những chiến sĩ trong trận Qadesh, khác với những hình ảnh sơm hơn các chiến sĩ trong hình đều có khăn đội đầu, một số vẫn sử dụng rìu đồng nhưng một số được trang bị thanh kiếm quodesh ngoài khiên và giáo.</i></span></b></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjiLmeGbd782nUmERAYEcQo-Tj_7A4PK0J0izvmtN7p1MmbI_Dw9IhC9yWbIZg9r85VXuzbD5RaS_9J__vn4MibEdBMxmSWk2oyC9QP4nnxHydvk6zNcLPwzfs0bm95YEmEtwtKnV9KR0s/s1600/11.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="282" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjiLmeGbd782nUmERAYEcQo-Tj_7A4PK0J0izvmtN7p1MmbI_Dw9IhC9yWbIZg9r85VXuzbD5RaS_9J__vn4MibEdBMxmSWk2oyC9QP4nnxHydvk6zNcLPwzfs0bm95YEmEtwtKnV9KR0s/s400/11.jpg" width="400" /></a></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<b id="internal-source-marker_0.08565833675675094" style="font-weight: normal; text-align: start;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><i>hình 11: từ khi đẩy lùi người Hyksos cho đến giữa thế kỷ 14 BC, chiến xa của người Ai cập tương đồng với những dân tộc Canaanite . Đặc trưng của những kiến xa ngựa kéo cho tới tận vương triều của Tuthmosis IV là bánh xe có 4 nan hoa . Dù chiến xa được đóng tại Ai cập nhưng một lượng lớn của chúng là cống phẩm của các thành bang chư hầu Canaanite. Kị sĩ trong hình đang dùng chiến xa đi săn, anh ta quấn dây cương ngang lưng để rảnh 2 tay dùng kéo cung.</i></span></b>
</div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<br /></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<br /></div>
<div style="text-align: left;">
<b id="internal-source-marker_0.3792317353654653" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Quyền lực tập trung vào pharaoh có nghĩa ông ta tự mình điều hành toàn bộ hoạt động của chính phủ. Trọng trách như vậy đòi hỏi một con người cương quyết, tài trí, có sức chịu đừng, ứng biến và có tầm nhìn. Trong trường hợp các vị vua xứ Assyria, sức mạnh của vương quốc hoàn toàn phụ thuộc vào tài năng của vi quân vua cầm quyền. Và thật may mắn cho Ai cập trong suốt thời kì Tân vương quốc, Ai cập đã nằm dưới tay của một vị pharaoh thiên tài và một số khác tuy không sánh bằng nhưng cũng rất tài năng. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc tái cấu trúc Ai cập thành một quốc gia quân sự làm xuất hiện tầng lớp chiến binh với vai trò ngày càng cao trong xã hội Ai cập. Để truy một quân đội sẵn sàng cùng với các vũ khí, khí tài kèm theo đòi hỏi phải xuất hiện những cơ chế kinh tế và quản trị mới. Những thanh gươm đồng như quedesh hay một lượng lớn mũi tên đồng chỉ có thể được làm trong những cơ sở sản xuất được quản lí bởi nhà nước. Những nơi này làm ra cả những thứ như khiên, giáo, cung chiến xa và cả tàu chiến đóng tại memphis. Những hoạt động như vậy được miêu tả trong những bức họa trong những hầm mộ thời kì tân vương quốc. Ngoài ta, không quốc gia nào có thể tạo nên một đạo quân chiến xa nếu thiếu nguồn cung cấp ngựa thường xuyên. Trong khi một lượng lớn ngựa được quân AI cập chiếm được từ chiến lợi phẩm và từ đồ cống nạp của các thành bang Syria và palestine thì vương quốc cũng tổ chức những trại nuôi và bãi thả để cung cấp số ngựa cần thiết cho quân đội. Khi xem xét các nguồn tài nguyên cần thiết để duy trì cho một đạo quân như vậy thì việc phát sinh chiến tranh là khó tránh khỏi. Nó thúc đẩy các pharaoh can thiệp sâu vào vùng đất Syria và Nubia, hai vùng đất có tài nguyên màu mỡ.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cấu trúc quân đội AI cập là bản sao của cấu trúc hành chính vương quốc. Quân đoàn phía bắc đạt bản doanh tại memphis và quân đoàn phía nam tại Thebes, mỗi đơn vị được một vị thống lãnh quản lí, về sau xuất hiện thêm quân đoàn thứ 3 và đơn vị thứ 4 do Ramaese II thành lập . Mỗi quân đoàn đặt tên theo vị thần của vùng đất mà nó nắm giữ, quân đoàn tại Thebes có tên Amun, quân đoàn Ptah ở Memphis, và Re ở Memphis. Quân đoàn thứ tư thành lập vào vương triều thứ 19 đạt tại Pi được Ramaese II đặt tên theo thần Set ( Sutekh) . Các vị tướng có trách nhiệm đào tạo lính mới tuyển bổ sung cho các đơn vị và cứ điểm, cung cấp quân cho các đơn vị hộ tống hoàng gia. Các bản ghi chép thống kê số lượng lính mới tuyển và việc cung cấp các vật dụng cần thiết được thực hiện bởi cục văn khố quốc gia. Cục này lại báo cáo cho các tướng lãnh quân đội của Ai cập. Bô máy hành chánh làm việc thông qua văn thư của AI cập giúp duy trì và cập nhật thường xuyên sức mạnh của quân đội. Cơ chế vận hành hiệu quả này làm cho quân đội AI cập là một trong những quân đội tiên tiến nhất vào cuối giai đoạn đồ đồng. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc gia nhập quân đội có sức hập dẫn lớn với giới trẻ Ai cập phản ánh qua các văn thư lưu trữ trong các trường học. Quân đội được mở rộng tạo thêm cơ hội gia nhập và tiến thân cho cả người giàu và người tầng lớp thấp. Trong khi những người tầng lớp cao có những vị trí đảm bảo trong những đơn vị tinh nhuệ như quân chiến xa thì những người bình dân có thể đạt tới những vị trí chỉ huy. Không tấm gương nào minh hoạt tốt hơn bằng sự nghiệp của Horemhab, người bắt đầu từ vị trí một văn thư và kết thúc ở ngai vàng pharaoh. Những pharaoh khác mà bắt đầu sự nghiệp từ quân đội có thể kể ra như Ay, Ramaese I và Amosis I. Long dũng cảm được tưởng thưởng bằng “phần thưởng vàng” dưới hình thức quyền trượng hay vũ khí (Ah-mose nói mình đã được Amosis thưởng 2 lần). </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đất đai, nô lệ và phần chia trong chiến lợi phẩm khuyến khích danh sách quân tinh nguyện. Tính giai cấp tự nhiên trong quân đội Ai cập còn được củng cố bởi khuynh hướng binh nghiệp có tính cha truyền con nối theo tước vị. Điều này được củng cố và khuyến khích trong thực tế qua việc thành lập các thuộc địa của quân đội xuyên suốt Ai cập. Tuy nhiên phần lớn quân đội được tuyển thông qua danh sách tòng quân được bố cáo ở các thành thị. Vào thời trung vương quốc quy định tỷ lệ bắt lính là một trên một trăm dân, tỷ lệ này tăng vọt vào thời tân vương quốc và đến thời Ramases II tỉ lệ này là 1/10. Có những bằng chứng cho thấy trong một số trường hợp là cưỡng bách tòng quân. Điều là bình thường vì trong thời kì Ramases II, một lượng lớn binh lính được bổ sung cho quân đội nhằm đối phó với các đe dọa từ biên cương.</span></b><br />
<div style="text-align: left;">
<b style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial;"><span style="font-size: 15px; white-space: pre-wrap;"><br /></span></span></b>
</div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: left;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgfM0391yNuhvLP4LReuOAdcQkwdGUjD3P7uZtduFzSh8qQrbjBlsv_yCq-SYGjcAOuK9kgHdHKZ3H7KfrLy5tvaoFcclNlQqJ23dUoxhtngLW94Ph2FouhaZSXzOFBJ4XKWVvG68nGn2g/s1600/12.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="371" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgfM0391yNuhvLP4LReuOAdcQkwdGUjD3P7uZtduFzSh8qQrbjBlsv_yCq-SYGjcAOuK9kgHdHKZ3H7KfrLy5tvaoFcclNlQqJ23dUoxhtngLW94Ph2FouhaZSXzOFBJ4XKWVvG68nGn2g/s400/12.jpg" width="400" /></a></div>
<div style="text-align: center;">
<span style="font-family: Arial; font-size: 15px; white-space: pre-wrap;"><br /></span></div>
<b style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"> <i>Hình 12: mặc dầu Ai cập đã phát triển chiến xa từ sau khi đẩy lùi người Hyksos, việc thiếu ngựa đã hạn chế sự phát triển nhanh chóng của đạo quân chiến xa. Nó chỉ đạt tới quy mô lơn vào thời kì của Tuthmosis III. Ngựa thật sự có giá trị trong số các chiến lợi phẩm và đồ cống nạp. Trong tranh ta thấy 2 con ngựa được mang về Ai cập. Chú ý hình ảnh đứa trẻ bên góc phải, vào thời kì củ Tuthmosis các chư hầu phải đưa con trai về Ai cập để làm con tin (bào tàng British)</i></span><i><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span></i></b><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiLDq_65K79clzmk1Ek6HhJO0WBed1plu7yWxDuaONXOD5kaOttfIKHsJgvmICjf1FzkO449Bcrj4ICHVjhOLDm6qUXTQRiTylHPdFNp52nfacID1AKWqKgxXDrq_n0-uiUbvYaXCx7TOs/s1600/13.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiLDq_65K79clzmk1Ek6HhJO0WBed1plu7yWxDuaONXOD5kaOttfIKHsJgvmICjf1FzkO449Bcrj4ICHVjhOLDm6qUXTQRiTylHPdFNp52nfacID1AKWqKgxXDrq_n0-uiUbvYaXCx7TOs/s400/13.jpg" width="271" /></a> <b style="font-weight: normal;"><i><br /><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 13: Được xem như vị pharaoh vĩ đại nhất trong lịch sử AI cập. Tuthmosis thực hiện không dưới 17 chiến dịch vào vùng Syria và Pelestin nhằm kiểm soát khu vực Levant. Chiến dịch Megiddo của ông ta thành công rực rỡ đến mức ông ta được xem như Napoleon của AI cập cổ đại.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span></i></b><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiVYDcpz4jAUlcYErPLNU_7vWSejoVK0vcjnYHWvZsfqsSKuMa-jzCPSnxIIvNFJsFdYqR99Ep8NhaXPTu3_8iHxmeJTD647YHqeHS4vPP_gNZihnFh5BgHrrz7EpdHNGkqhoJLmUFyKAc/s1600/14.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" height="305" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiVYDcpz4jAUlcYErPLNU_7vWSejoVK0vcjnYHWvZsfqsSKuMa-jzCPSnxIIvNFJsFdYqR99Ep8NhaXPTu3_8iHxmeJTD647YHqeHS4vPP_gNZihnFh5BgHrrz7EpdHNGkqhoJLmUFyKAc/s400/14.jpg" width="400" /></a> <b style="font-weight: normal;"><i><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hính 14: Lực lượng tinh nhuệ của các thành bang Canaanite là loại quân chiến xa gọi là chiến sĩ mariyannu. Đây là hình ảnh minh họa lấy từ bản khắc chiến xa của Tuthmosis IV, cho thấy những yếu tố chính của trang bị và lính trên một chiến xa ngựa kéo.</span></i></b>
<br />
<b style="font-weight: normal;"><i><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></i></b>
<b id="internal-source-marker_0.6925941952504218" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chiến tranh trong thời kì Tân vương quốc</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đội quân mà Tuthmosis III mang đi xuất phát từ cứ điểm Sile để đối đầu với liên quân đối phương tại trận Megiddo khác nhiều với lực lượng của Ramases II trong chuyến viễn chinh bắc phạt chống lại người Hittite 180 năm sau đó. Mặc dù lực lượng của Ramases lơn hơn với 4 quân đoàn và được huấn luyện và trang bị kỹ thuật tiên tiến hơn thì vẫn có nhiều yếu tố cho thấy có sự nối tiếp giữa hai thế hệ. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mắc dù các quân đoàn chiến xa được thành lập thì quân đội của tân vương quốc cũng giống như thời kì trung vương quốc, là một đạo quân chủ yếu là bộ binh. Đây là điểm khác biệt giữa quân đội Ai cập so với người Mitanni, người Syria hay Canaanite, những quân đội chủ yếu dùng chiến xa. Điều này nói lên 2 lợi thế của người Cập. Một là so với đối thủ thì Ai cập có dân số đông đảo do đó có thể triển khai một lực lượng bộ binh lớn, thứ hai là quân Ai cập sau nhiều thế kỉ đã quen với với thành lập và duy trì kỷ luật một đạo quân lớn như vậy. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bộ binh Ai Cập</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bộ binh chia làm hai loại. Cung thủ được trang bị cả bằng cung tổng hợp lẫn cung bằng cây uốn kiểu cũ. Thường thì cung thủ được bố trí dàn ngang nhưng được sắp xếp theo vị trí địa lý tự nhiên. Khi đối diện với quân lính được trang bị nhẹ như quan Liban thì những đợt bắn cầu vồng sẽ gây tổn thương lớn. Nếu đối mặt với bộ binh được trang bị nặng thì vai trò của cung thủ là bắn hỗ trợ cho bộ binh tham gia cận chiến. Loại bộ binh này gọi là nakhtu-qa (cậu trai tay khỏe) sẽ nhanh chóng tiến lên xếp đội hình giáo chống lại sự áp sát của đối phương trong khi sẵn sàng cận chiến với những thanh kiếm quodesh hay rìu đồng. Luôn có sự phối hợp giữa hai loại quân nhưng không có bằng chứng cho việc cả hai cùng được triển khai chung trong một đội hình cận chiến. Cả hai loại quân đều được triển khai thành những trung đội có quân số từ 200-250 lính. Tinh thần và biểu trưng của từng trung đội được thể hiện bằng cờ hiệu mang theo trên chiến trường. Các ví dụ có thể nêu như một trung đội lính Nubia dưới thời Amenophis II có tên “ Bò rừng Nubia”, những đơn vị khác của Amenophis III thì có tên là “ công lý hiển nhiên” và “ Aten tráng lệ”. Việc kiểm soát sự di chuyển của các đội hình được thực hiện bởi kèn trận, một trong số chúng đã được tìm thấy trong các khu mộ.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lực lượng chiến xa</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đội hình bộ binh của Ai cập rõ ràng là mục tiêu chính của chiến xa Syria và Canaanite. Chiến xa sẽ gây tổn thất lớn cho bộ binh nếu tấn công một cách bất ngờ. Tuthmosis III đã chống lại việc bị chiến xa tập kích như vậy khi tránh bố trí đội hình hàng dọc khi hành quân vào thung lũng Esdraleon từ cả hai đầu nam và bắc trong chiến dịch của ông ta tại Megiddo. Tuy nhiên chiến thuật này vẫn được người Hittite sử dụng thành công khi dùng chiến xa đột kích vào quân đoàn Re của quân AI cập tại Qadesh trong lúc lính bộ binh Ai cập chỉ trông cậy vào chiến xa Ai cập để chống lại chiến xa đối phương. Điều này nói lên vai trò của chiến xa trong quân đội Ai cập là rất khác so với đối phương, vai trò chủ yếu là hỗ trợ và bảo vệ đội hình bộ binh khỏi bị tập kích và tiêu hao bởi những đợt bắn cung của chiến xa đối phương. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Người Hyksos là những tiền bối của Ai cập trong nghệ thuật sử dụng chiến xa. Và mặc dù học tập từ thêm từ dân Canaanite và các dân tộc khác nhưng khi phát triển quân đội riêng của mình, chiến xa AI cập đã có những dấu ấn mang bản sắc riêng. Điều này phản ánh trong việc thiết kế chiến xa của họ. Nếu so với chiến xa Hittite, Mitanni hay Syria thì chiến xa Ai cập mang dáng vẻ thanhl lịch hơn nhiều, thậm chí có vẻ kém uy lực hơn. Ấn tượng này mang tính cảm quan hơn thực tế. Một chiến xa hạng nặng được dùng để xông lên tấn công hoặc để cận chiến. Trọng lượng bản thân nó cùng với tốc độ di chuyển trên địa hình trống mang lại sức mạnh cho cuộc tấn công. Những kiểu chiến xa đó không thích hợp cho nhiệm vụ chính của chiến xa Ai cập cũng như địa hình ở Ai cập và Canannite. Với việc chiến xa Ai cập được bố trí trong những toán quân trinh sát tiền tiêu nhưng không phải lúc nào cũng chắc chắn biết rõ được vị trí ẩn nấp của đối phương thì thời gian phản ứng khi bị tấn công là điều quyết định. Vì khả năng triển khai chiến xa để bảo vệ bộ binh khỏi bị tập kích là điều sống còn. Chiến xa hạng nhẹ của Ai cập có thể đảm nhận nhiệm vụ kể trên. Chiến xa nhẹ nhưng có thiết kế vững chắc cũng thể hiện bề mặt địa hình mà chúng hay được triển khai. Sa mạc và đồi núi không thích hợp với chiến xa hạng nặng và vì quân Ai cập chủ yếu tham chiến tại AI cập, Sinai và Canaanite nên chiến xa phải thích hợp với điều kiện trên. </span></b>
<br />
<b style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></b>
<b id="internal-source-marker_0.39886905113235116" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Người Ai cập đã phát triển và áp dụng những chiến thuật thành công chống lại chiến xa hạng nặng của địch thủ. Các chiến thuật này dựa trên sự nhanh nhẹn và cơ động của chiến xa Ai cập. Khi so sánh chiến xa Ai cập ta thấy các chiến được vũ trang hạng nặng của người Mitanni và Hittite có bánh xe với 6 nan hoa để có thể chịu sức năng thân xe, những miêu tả trên có trong các bức họa thuộc thời kì vương triều thứ 18-19.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những chiến xa Ai cập sẽ tấn công hàng ngang với một khoảng cách được tính toán giữa các chiến xa. Khoảng trống này sẽ cho phép các chiến xa chạy vòng ngược trở lại một cách nhanh chóng sau đợt tấn công đầu tiên và cũng phải vừa đủ để ngăn chặn lối thoát của đối phương thông qua các kẻ hỡ đội hình. Khi tấn công binh lính sẽ dùng cung tên ở tầm xa và lao ném ở tấn gần để gây tổn thất càng nhiều càng tốt. Nếu đợt tấn công hiệu quả bẻ gãy được sức kháng cự của đối phương thì quân Ai Cập sẽ nhanh chóng truy sát và gây thiệt hại nặng cho quân địch.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều quan trọng làm nên tính hiệu quả của chiến xa là ở những lính điều khiển vũ trang nhẹ. Những người này vũ trang bằng cung tên và lao đáp ứng nhiều nhiệm vụ cùng lúc. Trong khi tấn công họ bắt giữ hoặc hạ sát kẻ địch đồng thời cũng giải cứu những lính chiến xa khác nếu họ bị ngã. Quan trọng nhất là họ phải sẵn sàng để chống lại đội hình chiến xa đối phương khi đội hình AI Cập bị tấn công trước khi chiến xa địch kịp xoay vòng và tấn công tiếp. Khả năng xoay vòng nhanh hơn của chiến xa Ai Cập có nghĩa họ có thể đón đầu cuộc tấn công bằng chiến xa của đối phương.</span></b><br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjgIwRFzXtNPsD_i4SR-7tGoOtStbSS-K7aOqKZhSf_lp5OTvxyuvE81ieeShChQ58mEiE5vCJS0wdFOTEftC144gRmhIrfMwjEQicOrp86Y7UKcW5Gi4q7f7gAoFlw01UpCHLiOs5D3aM/s1600/15.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjgIwRFzXtNPsD_i4SR-7tGoOtStbSS-K7aOqKZhSf_lp5OTvxyuvE81ieeShChQ58mEiE5vCJS0wdFOTEftC144gRmhIrfMwjEQicOrp86Y7UKcW5Gi4q7f7gAoFlw01UpCHLiOs5D3aM/s400/15.jpg" width="293" /></a></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<b id="internal-source-marker_0.39886905113235116" style="font-weight: normal; text-align: left;"><i><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 15 : Hình khắc đá tại đến Amun ở Karnak mô tả Tuthmosis trong một hình ảnh biểu trưng đang túm tóc của các thành bang Canaanite mà ông ta bắt làm tù binh sau chiến dịch của mình</span></i></b></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjVkl8fn_cGfVtArDZPgHTjUlHXM04U2dUL-TnHBCR6MhP3wZeUFgf7LjoXRYWlQ5kohloaVuBah1PNAbZB8KugQb0ZLTTjQRswpaq846Q43PlVC6zgAQj8eG-aKbk_N6D9P_92NSKkf4Q/s1600/16.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjVkl8fn_cGfVtArDZPgHTjUlHXM04U2dUL-TnHBCR6MhP3wZeUFgf7LjoXRYWlQ5kohloaVuBah1PNAbZB8KugQb0ZLTTjQRswpaq846Q43PlVC6zgAQj8eG-aKbk_N6D9P_92NSKkf4Q/s400/16.jpg" width="315" /></a></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<b id="internal-source-marker_0.39886905113235116" style="font-weight: normal; text-align: left;"><i><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 16: Dù lính kị binh thật sự có lẽ phải xuất hiện trong quân đội Assyria vào thế kỉ 9 BC thì tượng đất trên cho thấy người Ai cập đã sử dụng kị sĩ trong nhiều nhiệm vụ khác nhau. Tượng trên có từ thời kì Armana </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span></i></b></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg_qkWYzvgxppWCa9P3RyFgpwVob5c9ml9NPF7bzqMbRC9BU15dqBAYmtYLnutiwTs5yKI_-suPWWglX9yjzuO4Rf18sANO-Y_dTP72xTKlyPomUxjHUuL2IeCGw21eBUzYTF7zzTJliPY/s1600/17.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="206" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg_qkWYzvgxppWCa9P3RyFgpwVob5c9ml9NPF7bzqMbRC9BU15dqBAYmtYLnutiwTs5yKI_-suPWWglX9yjzuO4Rf18sANO-Y_dTP72xTKlyPomUxjHUuL2IeCGw21eBUzYTF7zzTJliPY/s400/17.jpg" width="400" /></a></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
</div>
<div class="separator" style="clear: both;">
<b id="internal-source-marker_0.39886905113235116" style="font-weight: normal; text-align: left;"><i><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 17 : Tương phản với bức tượng trên là hình ảnh khắc trong mộ ở Horemhab, kị sĩ trên được cho là đang ngồi trên “ghế của con lừa “ cưỡi ngựa không mang yên.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span></i> </b></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgKFxQgv1E314VDsLhpPf05mxyC7fOlK2IFatGGbc03NE5s3xtm9ep6tQQLnyB56rFR6ngSweP1md8Yzr4h9Ig-KzacvZK_XJkJzjE0V4Af4Q_K1mS9tUGIxn1IyOlobhuhO0VcwLKu4K8/s1600/18.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgKFxQgv1E314VDsLhpPf05mxyC7fOlK2IFatGGbc03NE5s3xtm9ep6tQQLnyB56rFR6ngSweP1md8Yzr4h9Ig-KzacvZK_XJkJzjE0V4Af4Q_K1mS9tUGIxn1IyOlobhuhO0VcwLKu4K8/s400/18.jpg" width="265" /></a></div>
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
</div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
</div>
<div class="separator" style="clear: both;">
<b id="internal-source-marker_0.39886905113235116" style="font-weight: normal; text-align: left;"><i><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hính 18 : Sau cái chết của cha mình, Amenophis II thực hiện nhiều chiến dịch vào Syria và Canaan để trấn áp nổi loạn. Là một người có thể chất tuyệt vời, vị pharaoh nổi danh vì tài sử dụng cung. Một hình khắc đá ở Karnak miêu tả ông ta bắn cung từ một chiến xa đang chạy trúng hồng tâm bằng đồng. </span></i></b></div>
<div style="text-align: left;">
<br /></div>
<b id="internal-source-marker_0.00906729674898088" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lính hỗ trợ</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cũng như các quyền lực đế chế khác của thế giới cổ đại, người AI Cập cũng sử dụng một lượng lơn quân hỗ trợ. Ở trên đã nhắc tới loại quân Medjay, vốn sử dụng rộng rãi vào thời kì đầu của Tân vương quốc. Những đội quân khác bao gồm cả những người phải thực hiện bổn phận của chư hầu bao gồm cả các thành bang ở Syria và Canaan. Những người khác gia nhập quân đội Ai Cập theo những tuyến đường thú vị hơn nhiều, một số ban đầu là tù binh chiến tranh nhưng do có khả năng chiến đấu nên được bổ sung vào các quân đoàn. Những quân này bao gồm cả người Lybia, Nubia và quân Shepherd nổi tiến mà một số được tuyển vào đơn vị cân vệ tinh nhuệ của Ramases II.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các quân đoàn</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong chiến dịch thì mỗi quân đoàn là một đạo quân độc lập tác chiến. Trong khi hành quân vào lãnh thổ địch thì các quân đoàn được bố trí cách nhau khoảng 10km có thể hỗ trợ cho nhau khi cần thiết, việc thông tin được thực hiện bởi kị sĩ và chiến xa. Khoảng cách gần nhau giữa các quân đoàn tránh trường hợp khi chiến xa của một quân đoàn bị đánh bại sẽ có lực lượng ứng cứu kịp thời cho đội hình bộ binh bị tấn công. Tuy nhiên không phải lúc nào điều đó cũng được duy trì như tại trận Qadesh.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các đạo quân của quân đoàn có thể được sử dụng thành khối tân công hoặc tách ra thực hiện các nhiệm vụ riêng rẽ và sau đó tập hợp lại. Tính chất độc lập tác chiến của các quân d9aon2 được mô tả trong một văn bản về chiến dịch của Seti I tại Palestine năm 1318 “ ...Do đó hoàng thượng cử cánh quân thứ nhất của quân đoàn Amun “Cánh cung vĩ đại” tiến đánh đô thành Hamath, cánh quân thứ nhất của quân đoàn Re, “Vô cùng dũng cảm” tiến về thị trấn Beth-Shan, cánh quân đầu tiên của quân đoàn Seth “ Sức mạnh cánh cung” tiến về Yanoam”. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dù nhiều pharaoh tự hào về khả năng điều binh bố trí đội hình trên chiến trường nhưng thông thường quân Ai cập bố trí với lực lượng bộ binh ở trung tâm và chiến xa ở hai bên cánh. Rất ít khi quân Ai cập phải bố trí đội hình phòng thủ ngoại trừ trận Qadesh, khi mà họ không nắm được thế chủ động và bị cuốn vào trận tập kích.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Người Ai Cập cũng rất thành thạo việc chế tạo máy móc công thành. Khi tấn công vào Megiddo, Tuthmosis III đã phái một đạo quân dưới sự điều khiển của viên tướng Djehuty bao vây đô thành Jaffa. Amosis bao vây Sharuhen trong vòng 3 năm và Tuthmosis II bao vây Meigiddo hết 7 tháng. Một số cuộc vây thành như vậy được miêu tả trong lịch sử, như chiến dịch của Merneptah tại Palestine cho thấy phương pháp của phe công thành như dùng thang dây hoặc cố phá công bằng búa. Với rất nhiều pháo đài suốt miền Syria và Canaan thì người Ai Cập cũng như người Assyria về sau chú trọng việc giải quyết vấn đề quân sự tại chiến trường và cố tránh việc vây thành khi có thể.</span></b>
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<br /></div>
<b id="internal-source-marker_0.00906729674898088" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hải quân</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc sử dụng thuyền chiến trên những nhánh sông trong chiến tranh đã xuất hiện từ Ai Cập rất xa xưa. Vào thời kì Tân vương quốc, hải quân không được xem là một đơn vị độc lập mà là một phần không thể tách rời của quân đội và được triển khai rộng rãi trong các chiến dịch thủy bộ kết hợp. Ở trên đã nhắc tới các chiến dịch như vậy của Kamose và Amosis chống lại người Hyksos. Tuthmosis có một hạm đội lớn được đóng tại cảng hoàng gia Perunefer gần Memphis. Những chiến thuyền này dùng để vận chuyễn những đơn vị của quân đội đi dọc bờ biển đến các cảng ở Lebanon hoặc hỗ trợ cho các chiến dịch ở chống lại các thành bang miền nam Syria và người Mitanni. Rất nhiều trong số các chiến thuyền là tàu chở hàng. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những miêu tả sinh động nhất về hoạt động của chiến thuyền AI Cập có thể thấy trên những vách tường của ngồi đền Medinet Habu miêu tả việc đánh bại hạm đội cướp biển của vua Ramases III. Thủy thủ của các chiến thuyền xuất thân từ bộ binh được huấn luyện và chuyển sang phục vụ trên tàu, những chiến thuyền mô tả trong bảng khắc đá ở Medinet Habu có thủ thủy đoàn lên đến 50 người. Thủy thủ được huấn luyện để có thể chiến đấu tốt cũng như chèo thuyền và điều khiển tàu.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi lâm trận khoảng 20 thủy thủ là các tay chèo trong khi phần con lại thiết lập đội hình tấn công. Tiếp cận tàu đối phương các thủy thủ sẽ chiến đấu bằng cung cung tên và ném đá, một số dùng móc câu để ném và kéo tàu đối phương. Khi các thuyền đã được kéo sát lại, một lượng quân vũ trang với giáo cận chiến sẽ nhảy sang tàu đối phương với sự yểm trợ bằng cung tên từ đội hình trên tàu phía sau. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Người Ai Cập đã đánh bại quân xâm lược đến từ biển bằng một chiến thuật khôn ngoan, họ đã lùa được hạm đội đối phương về phía bờ biển, nơi họ bố trí sẵn những trận mưa tên dội vào sàn tàu địch quân. Chiến thắng này được mô tả trên các điêu khắc đá tại đền Medinet Habu.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhfljRElQe-xvpX7N36NEp7dsc6SciTP2fbcqn-4mg5vb8IWSIMI263A8fO1UQ2IlmciczCw_szkkO9EyBAzwVFCpdTn25WE9pACM98T1CrOaxHU1mbg9yFdq2cTrEAA72tezaPjVHAnsE/s1600/20.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" height="316" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhfljRElQe-xvpX7N36NEp7dsc6SciTP2fbcqn-4mg5vb8IWSIMI263A8fO1UQ2IlmciczCw_szkkO9EyBAzwVFCpdTn25WE9pACM98T1CrOaxHU1mbg9yFdq2cTrEAA72tezaPjVHAnsE/s640/20.jpg" width="640" /></a><br /><i><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 19 : vào thời kì Tuthmosis IV thì người Ai Cập đã loại bỏ ảnh hưởng của người Canaanite và chế tạo những chiến xa mang phong cách riêng. Vào cuối vương triều thì chiến xa Ai Cập sử dụng bánh xe với 6 nan hoa như trong hình. Chiến xa trong hình được khia quật từ hầm mộ của Yuya, cha dượng của Tuthmosis III.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span></i><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEht7UVTPcyfyJxMu9aCcDAUjckK3j_x52k8AcBJCimw6fJ3S-Dsn6rH2-oAlGP02AKeQhh4VgbpWRZDuixeaQKKtEeit5oMbns2Y3s7q-5A1MNWy5CDxJX-EJsJf3aX3-lDjDfSYISTSn0/s1600/21.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEht7UVTPcyfyJxMu9aCcDAUjckK3j_x52k8AcBJCimw6fJ3S-Dsn6rH2-oAlGP02AKeQhh4VgbpWRZDuixeaQKKtEeit5oMbns2Y3s7q-5A1MNWy5CDxJX-EJsJf3aX3-lDjDfSYISTSn0/s640/21.jpg" width="586" /></a> <i><br /></i><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiXjZY4iWJStUyavdKWUyhDIlFQTIGkC84kL0SzYz_4E7YUVn3Xavt0cOQnu_rib4uQXassnEylaPm94awf8VZKchgtB9PQK88t-MGMaIcs7TvcbteQh0yVUdEoQvPfGSPnW7xa6bLaLCE/s1600/22.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiXjZY4iWJStUyavdKWUyhDIlFQTIGkC84kL0SzYz_4E7YUVn3Xavt0cOQnu_rib4uQXassnEylaPm94awf8VZKchgtB9PQK88t-MGMaIcs7TvcbteQh0yVUdEoQvPfGSPnW7xa6bLaLCE/s640/22.jpg" width="508" /></a> <i><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 20, 21: miêu tả trận đánh với quân xâm lược từ biển vào năm 1190 BC</span></i></b>
<br />
<b style="font-weight: normal;"><i><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></i></b>
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiLOltuKaLn-BbWRMySXcb4gpL3A04qc7YIsAr6JldCOVMpYe6VJelYRlfazNg_GyKYGGuaKCOFEDf6xwPzGWVPhV9aJiheleFFwmKUyLxRs3LRC4Z5dy-AQhQ362Tj6eo-HI9HFzcK5zg/s1600/25.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiLOltuKaLn-BbWRMySXcb4gpL3A04qc7YIsAr6JldCOVMpYe6VJelYRlfazNg_GyKYGGuaKCOFEDf6xwPzGWVPhV9aJiheleFFwmKUyLxRs3LRC4Z5dy-AQhQ362Tj6eo-HI9HFzcK5zg/s640/25.jpg" width="464" /></a></div>
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgMfMB6-_nZeImcJkzDXyYy_vAxx4kZUsi1UlHQRhqeG5RARY4hwWRHlVDLDhAG-UkLaoqoXMqMteULVfkq32rzWS8uemKMUTGnoKDc2qaqNFRn8KQv5gVm1wa9lp5bPrww2V3nfnQVL1U/s1600/26.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="464" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgMfMB6-_nZeImcJkzDXyYy_vAxx4kZUsi1UlHQRhqeG5RARY4hwWRHlVDLDhAG-UkLaoqoXMqMteULVfkq32rzWS8uemKMUTGnoKDc2qaqNFRn8KQv5gVm1wa9lp5bPrww2V3nfnQVL1U/s640/26.jpg" width="640" /></a></div>
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjN82U-GG8mX_2p3mrAOPdKMAmeqIMX3hB0QPm2XZcjZ4ibkTWj2B3rNBunhu8jqqYmCVm43FN9LFZSKEJN5EluL6tBlG1O6aoMs8E3ArCU-QgCEEVajZTNzUKvf2pyEYhPaMpt9O_IEUA/s1600/27.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="494" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjN82U-GG8mX_2p3mrAOPdKMAmeqIMX3hB0QPm2XZcjZ4ibkTWj2B3rNBunhu8jqqYmCVm43FN9LFZSKEJN5EluL6tBlG1O6aoMs8E3ArCU-QgCEEVajZTNzUKvf2pyEYhPaMpt9O_IEUA/s640/27.jpg" width="640" /></a></div>
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgo9vPgvU8HN0x1SVDmNa2DUuwUXY6ZpqaT6EX71lJIImz64SClsCXelJNNvTi0I3fvZ6vPHs_JOQ2pzjPVncdJUfMsXIMOgth83-RyPHrKtEs9DrSHQNsJsWL8Zfmh3IfpEnt2QGcHNI4/s1600/28.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgo9vPgvU8HN0x1SVDmNa2DUuwUXY6ZpqaT6EX71lJIImz64SClsCXelJNNvTi0I3fvZ6vPHs_JOQ2pzjPVncdJUfMsXIMOgth83-RyPHrKtEs9DrSHQNsJsWL8Zfmh3IfpEnt2QGcHNI4/s640/28.jpg" width="500" /></a></div>
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi7NaVLEsADNGSrjM-zMMndG__oqhBuJ6xCuE8v8jtfimttc4pQ8YnEpD2LZCStnfdVGmYDfPX1tdx5HIA6-sQhYWg2Hyzv-TtZpzfZt7zZzfb0XRo1C1evrfsZ0q4j4ZXwQUSarbgeym0/s1600/29.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="482" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi7NaVLEsADNGSrjM-zMMndG__oqhBuJ6xCuE8v8jtfimttc4pQ8YnEpD2LZCStnfdVGmYDfPX1tdx5HIA6-sQhYWg2Hyzv-TtZpzfZt7zZzfb0XRo1C1evrfsZ0q4j4ZXwQUSarbgeym0/s640/29.jpg" width="640" /></a></div>
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgcXdajB4HfsxI3-3QK0TsXz8KQmc6CjS2IPIBYXJOiSFml-SyEWVRYcYPznFK9djY1tSdvEuR3kPDAfJF5lUGIW0itq_-ry8AdhzXv0rE9VqUoufhvKqlV8h-gOEsDb3dtSnNCAYKOLos/s1600/30.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="494" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgcXdajB4HfsxI3-3QK0TsXz8KQmc6CjS2IPIBYXJOiSFml-SyEWVRYcYPznFK9djY1tSdvEuR3kPDAfJF5lUGIW0itq_-ry8AdhzXv0rE9VqUoufhvKqlV8h-gOEsDb3dtSnNCAYKOLos/s640/30.jpg" width="640" /></a></div>
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhKy-5E3RrKsp0kBuFSCBTTHdZ7kY8QZCBtJ-Hje5KyZb6TpUP72BJiUYihDWA4qE9UIUMN9nGatUuqZWn4L8LUgKttbNhyphenhyphenW81rLhpGVlLNbbx19pLrTBG4C6UgiabRwzxL5fuy0rMB_g0/s1600/31.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="486" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhKy-5E3RrKsp0kBuFSCBTTHdZ7kY8QZCBtJ-Hje5KyZb6TpUP72BJiUYihDWA4qE9UIUMN9nGatUuqZWn4L8LUgKttbNhyphenhyphenW81rLhpGVlLNbbx19pLrTBG4C6UgiabRwzxL5fuy0rMB_g0/s640/31.jpg" width="640" /></a></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<br /></div>
<b id="internal-source-marker_0.23199618607759476" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trận Megiddo</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Xưa này không phải chỉ mỗi mình Napoleon mang quân đi viễn chinh. Sau 9 ngày hành quân, Tuthmosis III cùng đạo quân của ông ta đã từ AI Cập tiến vào Gaza phía nam Canaan. Tuyến hành quân vào Sinai gọi là “những nẻo đường của Horus” có vận tốc khoảng 15 dặm/ 1 ngày, nhưng về sau chậm lại vào khoảng 8 dặm/ ngày có lẽ vì lí do mệt mỏi hoặc đề phòng khi đi sâu vào lãnh thổ thù địch. Chiến thuật điều cánh quân của tướng Djehuty đi bao vây Jaffa nhằm mở rộng tuyến hậu cần hỗ trợ từ bờ biển nam Canaan.Việc bao vây thành phố này cũng vì lí doTuthmosis muốn đảm bảo việc thông tin liên lạc được thông suốt và dự kiến cho tuyến đường lui quân. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hành quân</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tiến đến vùng phụ cận ở gần Meggido vào khoảng giữa tháng 5, Tuthmosis cho gọi một hội đồng tướng lãnh đến để bàn luận các kế hoạch tác chiến. Nghiên cứu về những bản khắc miêu tả cuộc bàn luận và trận đánh giúp ta hiểu rõ hơn mặc dù lời văn chủ yếu ca ngợi vai trò anh hùng của vị pharaoh. Nội dung của các cuộc bàn luận tập trung vào việc lựa chọn các tuyến đường tiếp cận đồng bằng Esdraleon nơi đô thành Meggido án ngữ. Hai tuyến đường dễ đi và tuyến thứ ba, chặng đường Aruna thì khó khăn hơn vì nhỏ hẹp nằm trên đỉnh những ngọn đồi khiến quân đội dễ bị tập kích. Lợi thế của nó là tiếp cận trực tiếp với Meggido cho phép quân đội tiến vào đồng bằng chỉ cách thành phố ít hơn một dặm. Ý kiến về tuyến đường này theo báo cáo ghi nhận thì các tướng lãnh đều đồng ý rằng quá mạo hiểm so với lợi thế đạt được. Nếu sử dụng tuyến đường này thì theo họ “người xếp sau người, ngựa theo sau ngựa” và lối thoát ra thì mong manh như thảm họa. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc bàn luận phải hết sức kỹ lưỡng vì cả pharaoh và các tướng lãnh thông qua quân thám báo đều biết liên quân đối phương đã bố trí các lực lượng phòng thủ và lực lượng chiến xa tại hai tuyến đường dễ đi, đặc biệt là tại tuyến Taanach. Họ có thể đã lên kế hoạch sẵn sàng tấn công quân Ai Cập một khi họ tiến vào đồng bằng Esdraleon. Các quân đoàn sẽ bị tập kích chia cắt, dễ bị tổng thương bởi chiến thuật tấn công bằng chiến xa, một khi mà chiến xa của các quân đoàn không còn sức phòng thủ thì bộ binh sẽ dễ làm mồi ngon cho các trận mưa tên của đối phương. Khi đó cho dù quân đội AI Cập kịp thời triển khai đội hình tấn công thì thương vong cũng đã đáng kể. Chiến thuật của người Canaan đã được người Ai Cập biết tiếng và dù thiếu vắng những chiến dịch trong vòng 20 năm vào khu vực này thì phần lớn các tướng lãnh Ai Cập đều có kinh nghiệm thực chiến với người Canaanite. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuthmosis rõ ràng tin tưởng rằng lợi thế của tuyến thứ ba đáng kể đánh cuộc hơn sự nguy hiểm và có lẽ củng cố lý lẽ của mình bằng quyết tâm sắt đá khiến các tướng lãnh phải quy thuận. Nếu họ đã chọn tuyến hành quân ít mạo hiểm hơn và sử dụng một trong hai tuyến đường dễ đi thì có thể đối phương cũng nghĩ như vậy và tuyến đường thứ ba sẽ không được phòng thủ? Cho đến lúc địch quân phát hiện ra sự có mặt của quân AI Cập ở đồng bằng thì người Ai Cập đã kịp triển trai thế trận tấn công và không phải chịu tổn thất không đáng có nếu sử dụng 2 tuyến đường kể trên. Mặc dù vẫn có hoài nghi của các tướng lãnh nhưng Tuthmosis đã chọn quyết đinh cuối cùng được ghi trong văn bản thể hiện ý chí mạnh mẽ của mình “ Trẫm sẽ tiến quân theo lối Aruna. Ai trong số trong các người mong theo chân ta hãy tiến lên, và dù các người có những nghi ngờ về kế hoạch thì lòng trung thành của các người với thánh thượng, trẫm luôn biết rõ và tin tưởng”</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sau hai ngày hành quân, người AI Cập tiến đến khu đồi Aruna và vào sáng sơm ngày thứ 3, tiến trình bắt đầu. Tại nơi rộng nhất, tuyến đường cũng chỉ khoảng 100m ngang. Điều thú vị ở chỗ những nhà bình luận thay nhau miêu tả sự khó khăn của chiến xa khi tiến quân theo nẻo đường hẹp trong khi quên mất điều cốt yếu là chiến xa AI Cập được thiết kế khá nhẹ và chắc chắn một phần lớn đã được mang vác trong khi ngựa được tháo ra và dẫn đi riêng. Cuộc hành trình của cả đoàn quân tốn hơn 12 tiếng đồng hồ và không ngừng cho đến tận khuya, lúc họ cắm trại nghỉ đêm. Khi hành quân tiến vào đồng bằng hẳn bộ chỉ huy AI Cập có thể trong thấy phần lớn địch quân đang hối hả rút về để phòng thủ Meggido, như vậy khi màn đêm buông xuống trước mặt họ là Meggido và đội quân phòng thủ. Ván bài của Tuthmosis đã ngả ngũ và yếu tố bất ngờ chiến thuật đã đạt được.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Việc quân AI Cập phải cắm trại qua đêm ngay khu vực đỉnh đồi đã được các miêu tả nhấn mạnh. Như vậy không thể bỏ qua mối nguy bị tập kích bất ngờ và pharaoh đã lênh cho lính gác phải “ hãy sẵn sàng và kiên trì” cũng như “hãy chuẩn bị vũ khí của các người sẵn sàng cho cuộc tấn công ngày mai”, như vậy có thể cho rằng một bộ phận lớn quân đội đã phải thức trắng đêm. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trong kế hoạch này thì sự lạc quan của pharaoh không phải là của tất cả các tướng lãnh còn lại bởi nếu cuộc tấn công thất bại, việc lui quân sẽ vô cùng khó khăn cho người AI Cập vì hậu đội của họ vẫn còn trên những sườn đồi. Những cảm giác hoài nghi và sợ hãi nhanh chóng tan biến ngay khi tiếng kèn trận vang lên. Cho tới lúc này chúng ta biết rằng đây là trận đánh lớn đầu tiên mà Tuthmosis trực tiếp cầm quân cũng như đợt giao tranh đầu tiên của quân đội Ai Cập trong gần 20 năm.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Dàn quân</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Sáng hôm sau pharoh bắt đầu triển khai thế trận. Ngự trên chiến xa bằng vàng hợp kim bạc, đầu đội vương miện chiến tranh màu xanh, nhà vua được mô tả “ trang hoàng với bộ giáp chiến tranh nhà vua trông giống như thần Horus, giống như Montu, giống như Theban trong khi cha của ngài, thần Amun ban phép cho ngài sức mạnh”. Đoạn văn “ giờ đây quan đội chuẩn bị tấn công tổng lực ” đề cập đến việc triển khai thế trận tuy nhiên nó cũng nhắc tới việc , trong khi quân đội di chuyển đội hình thì họ đã diễu hành qua trước vị trí của nhà vua. Điều này không phải là không đáng tin. Việc quân đội AI Cập với chiến xa và cờ xí ngợp trời diễu binh hẳn là gây một ấn tượng mạnh mẽ lên nhuệ khí của quân địch lúc này cũng đang tập hợp và triển khai đội hình. Ngoài ra việc việc pharaoh cho duyệt binh như vậy với tiến kèn và trống trận vang dội ắt hẳn cũng nâng cao sĩ khí của những binh sĩ lần đầu ra trận và giúp họ tự tin hơn cho lần chạm trán đầu tiên. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuthmosis chia quân đội làm ba đạo. Cánh trái ở tây bắc Meggido, quân trung tâm do Tuthmosis chỉ huy và cánh phải ở phia nam suối Qina. Quân đội đối phương được miêu tả là rất đông, không ít hơn 330 vị vua và quân đội của riêng họ, “ hàng triệu binh lính, hàng trăm ngàn thủ lãnh cưỡi chiến xa”.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trận đánh</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Các chi tiết về trận đánh nằm rải rác nhưng tự trung là trận đánh diễn ra rất nhanh. Ngay sau đợt tấn công mạnh mẽ của đạo quân pharaoh ở trung tâm, đội hình đối phương bị bẽ gãy và hoảng loạn. Làn sóng hoảng loạn nhanh chóng tỏa ra khắp đội hình liên quân và quân đội lập tức tháo chạy bỏ lại chiến xa, ngựa và chiến lợi phẩm. Những người trong thành phố đã đóng chặt cánh cổng lớn nhằm ngăn quân AI Cập vào thành. Một hình ảnh buồn cười xuất hiện trong đám loạn quân là quân trong thành đã thả dây để cứu thoát vua của Kadesh và Meggido trong số những kẻ bỏ chạy. Nhiều quân bỏ chạy đã thoát thân bằng cách vứt lại chiến lợi phẩm. Nếu quân AI Cập không bận thu thập những chiến lợi phẩm này, hẳn họ đã có cơ hội tuyệt vời để chiếm lấy đô thành Meggido trong lúc lộn xộn. Viên sĩ quan ghi chép hẳn đã nhìn thấy cơ hội bị bỏ lỡ và sự mất hàng ngũ của quân Ai Cập. Có ý kiến cho rằng điều này chỉ ra sự yếu kém về kỷ luật của quân AI Cập, tuy nhiên đây không phải là điều hiếm thấy, những quân đội có kỷ luật tốt hơn nhiều vẫn khó vượt qua những cám dỗ như vậy trên chiến trường mà những lính của Wellinton tại trận Victoria năm 1813 là một ví dụ điển hình. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuthmosis tiến hành bao vây thành phố và tuyên bố phải hạ thành bằng mọi giá “ vì vị trí thống trị của Meggido ở toàn thể các thành bang phía bắc nên việc chiếm giữ đô thành này là việc hạ được hàng ngàn thành phố khác”. Một hào dài được đào xung quanh thành phố và rào chắn bằng gỗ được dựng lên. Cũng phải mất bảy tháng đến tháng 12 năm 1482 TCN thành phố mới chịu đầu hàng. Chiến lợi phẩm thu về rất lớn bao gồm 2014 con ngựa được đem về cho các trại gây giống ở AI Cập. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chiến thắng ở Meggido có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Tác động của nó rõ ràng đã mang lại sự yên ổn cho cả khu vực trong gần như hầu hết thời gian còn lại của vương triều. Và những chiến dịch của pharaoh trong vòng 20 năm tiếp tiếp theo chỉ nhằm mục đích kiểm soát hoàn toàn khu vực Levant mà thôi.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chiến dịch vào năm Ba mươi mốt</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nếu trận Miggido là trận đánh quan trọng nhất trong cả thời kì Tân vương quốc thì một trong những chiến dịch thành công và mang lại niềm tự hào cá nhân cho vị phraoh là chiến dịch vào năm thứ 2 của vương triều. Sau nhiều công sức và lao động để mang lại cho quân đội Ai Cập sự chuẩn bị chu đáo và săn sàng, giờ đây lại trải qua kinh nghiệm chiến trường đây là lúc tung ra đòn tấn công vào “ bọn kẻ thù rệu rã Mitanni”.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những năm trước trận đánh người AI Cập đã tiến vào một cách có hệ thống vùng trung tâm duyên hải Syria và vùng cao hơn như là một sự chuẩn bị cho việc tấn công người Mitanni. Tuy cả thành Tumip và Qadesh đều chưa bị hạ nhưng quyền lực của người Mitanni đã bị suy giảm khi buộc phải cống nạp cho Ai Cập. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuối mùa xuân năm 1471 TCN, một lượng lớn lính được chở bằng tàu đến Syria và đổ bộ vào nhiều cảng khác nhau. Những lính này sau đó nhập vào đại quân Ai Câp khi họ bắc tiến. Sử dụng gỗ thu hoạch từ những khu rừng ở Biblos, cầu phao đã được chế tạo nhằm làm lối vượt sông Euphrates. Sau khi vượt sông Orontes, Tuthmosis có trận chạm trán thành công với quân Mitanni ở ngõ phía tây thành phố Aleppo. Thành Carchemish là mục tiêu, tại đây lối vược sông Euphrates đã được chế tao bởi những cầu phao mang theo bằng xe thồ. Cũng tại đây Tuthmosis đã cho dựng lên tấm bia ghi công đặt cạnh bia đá của ông nội của mình, vị pharaoh nhà Tuthmosis đầu tiên. Tiến xa hơn về phía năm, quân AI cập tới được thành Emar trước khi quy ngược lại. Chiến lợi phẩm thu hoạch rất nghèo nàn và kế hoạch gom quân đội của người Mitanni đã thất bại cho thấy vua MItanni tại Washukkani đã nhìn thấy quân Ai Cập hành quân không gì hơn là cướp bóc ngoài việc uy tín được nâng cao thêm.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Người Mitanni sau đó không chấp nhận tham gia trong một trân đánh tổng lực mà Tuthmosis III mong muốn. Những chiến dịch tiếp theo nhằm mục tiêu củng cố thêm quyền thống trị của Ai Cập trong khu vực nhưng sự thật là trong mười 12 năm cuối vương triều thì mong muốn chiếm giữ khu vực và cống phẩm ngày càng tan biến cùng với khả năng vươn xa lên bắc của quân Ai Cập. Đơn giản là khoảng cách quá xa đã ngăn cản một sự kiểm soát dài lâu của AI Cập với khu vực này. Rõ ràng nhiều lần sau đó người Mitanni đã tái xâm nhập vào khu vực bất chấp nỗ lực kiểm soát của vị pharaoh dũng cảm. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hòa giải với người Mitanni</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Điều hiển nhiên trong môi quan hệ của AI Cập với các thành bang vùng Levant là mối hữu hảo giữa hai bên xuất phát từ vai trò cá nhân của từng vị pharaoh và sự nể trọng mà ông ta giành được chứ không phải bản thân Ai Cập. Cũng như Amenophis II là người đã tiến vào Syria đập tan cuộc nổi loạn và áp đặt quyền lực của mình lên khu vực sau cái chết của cha mình vào năm 1450 TCN. Hai chiến dịch liên tiếp vào năm thứ 3 và thứ 7 của vương triều của ông này thực hiện ở hai vùng phụ cận là Qadesh và Oronte. Chiến dịch đầu tiên được nhớ đến bởi mức độ đàn áp tàn bạo của nó, đích thân Amenophis ra lệnh hành quyết các thủ lĩnh bị bắt, 6 thi thể bị mang về Thebes trong khi 7 cái khác bị treo cho thối rữa ở Napata vùng Nubia như lời ran đe cho những kẻ phản nghịch khác. Cuộc hành quân còn lại của ông ta là chiến dịch dập tắt của nổi loạn ở Canaan. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên những diễn biến chính về sau của triều đại Amenophis II và con của ông ta là Tuthmosis IV cho thấy người AI Cập đã phải dần lùi bước trước người Mitanni. Lúc này sự xuất hiện của người Hittite đã tạo nên mối đe dọa mới tạo nên bối cảnh để người AI Cập và người Mitanni xích lại gần nhau. Có vẻ như Tutthmosis IV có vẻ như là nhân tố chính cho tiến trình này. Một hiệp ước hòa bình được đánh dấu thông qua các cuộc hôn nhân và đến triều đại của Amenophis III thì một khu vực phân chia vùng ảnh hưởng của người AI Cập và Mitanni được vạch ra ở Syria tuy nhiên ảnh hưởng của người AI Cập vẫn tiếp tục bị đe dọa.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vương triều Tuthmosis III là đỉnh cao của sức mạnh, sự giàu có và uy tín của Ai Cập thời kì Tân vương quốc. Hiệp ước hòa bình với người Mitanni mang lại một sự bình ổn cho khu vực. Những tấm bia Amarna có từ thời Tuthmosis III và con trai của ông ta Tuthmosis IV (Akhantanen) không những ghi lại nhưng văn bản ngoại giao mà còn cho thấy cái nhìn độc đáo về tình hình trong khu vực. Văn bia ghi lại những tranh chấp xảy tranh giữa các thành bang nhỏ cũng như những khó khăn trong việc quản lí những tộc người du mục như Sutu và Hapiru. Một trong những văn bia ở Amarna đề tập đến cái tên Suppiluliumas, một vị vua của người Hittite, trong đó đề cập đến hy vọng của của ông ta rằng mối bang giao giữa người Hittite và Ai Cập được thiết lập dưới triều đại của vua cha vị pharaoh sẽ được duy trì tốt đẹp.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhUSljrzFiw_2t5uHghq1MY5VeqLMc8Qb2AsRd1_APNGHlPDsp1Kb_sy6g-kFVcK2peTQ0TzGw_QodgXN6eSIGQIin_JbydRKoRmrzCt_fv0Vqxb5xU-jd0S1uSIsjSYmdRfLIS37zHjtI/s1600/22.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" height="246" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhUSljrzFiw_2t5uHghq1MY5VeqLMc8Qb2AsRd1_APNGHlPDsp1Kb_sy6g-kFVcK2peTQ0TzGw_QodgXN6eSIGQIin_JbydRKoRmrzCt_fv0Vqxb5xU-jd0S1uSIsjSYmdRfLIS37zHjtI/s400/22.jpg" width="400" /></a><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 22: Hình vẽ chiến xa Ai Cập với chi tiết trục xe được di chuyển về cuối thân xe. Đây là cải tiến quan trọng giúp tăng độ linh hoạt vận động cho các chiến xa và là một phần trong chiến thuật của quân Ai Cập </span><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi7z2EJs2XObfxhC0RGJWwJw2TAOZCRLgjlwNtL97D__8FUL0RfnqsKusIoT3f4jm3gvBqDHP1WZBxafkCNJ5JMpyJ6dWJnp2Xt1fmb2teC0CtU5CNY8ZueYpannpPV45YFvzvQmHgo7-0/s1600/23ab.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi7z2EJs2XObfxhC0RGJWwJw2TAOZCRLgjlwNtL97D__8FUL0RfnqsKusIoT3f4jm3gvBqDHP1WZBxafkCNJ5JMpyJ6dWJnp2Xt1fmb2teC0CtU5CNY8ZueYpannpPV45YFvzvQmHgo7-0/s400/23ab.jpg" width="400" /></a><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 23 : Bên trái: Dưới thời trị vị của pharaoh Tuthmosis III, Ai Cập vươn lên đỉnh cao quyền lực, giàu có và ảnh hưởng. Sau khi hòa bình với người Mitanni được thiết lập, toàn bộ đế chế AI Cập đã được ổn định. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bên phải : kể từ vương triều của vi pharaoh kế tục là Tuthmosis III, quyền lực Ai Cập bị suy giảm bởi những cuộc nổi loạn tôn giáo và bất ông chính trị. Trong bối cảnh đó người Hittite xâm nhập và trở thành bá chủ khu vực Levant.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiCqOaQOiE3e70hLdL34V6ueLcuei9hyphenhyphenv6OUmBtLBRebkSHdxpKhS1b_RUAEryo0PHHjFLy20FswmwbS8j9-Saw9HcUGvnUKYIsI_a_4ATcXRt1ejo9mxxX9QCdJbiv7kfv5jFeZI01_d0/s1600/24.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" height="265" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiCqOaQOiE3e70hLdL34V6ueLcuei9hyphenhyphenv6OUmBtLBRebkSHdxpKhS1b_RUAEryo0PHHjFLy20FswmwbS8j9-Saw9HcUGvnUKYIsI_a_4ATcXRt1ejo9mxxX9QCdJbiv7kfv5jFeZI01_d0/s400/24.jpg" width="400" /></a><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Hình 24: Những chi tiết trong bức họa dưới đây ở đền Amarna có nhiều điểm đáng chú ý: đầu tiên là 4 người lính bên phải ngoài cùng là hình ảnh của lính đánh thuê nước ngoài trong quân đội Ai Cập, hàng quân còn lại mang những cờ hiệu dùng để phân biệt nhanh các đại đội, hàng quân bên dưới là những lính bộ binh trang bị vũ khí cận chiến.</span></b>
<br />
<b style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></b>
<b id="internal-source-marker_0.1995168416760862" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 19px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mối đe dọa từ người Hittite</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vùng trung đông chứng kiến sự trỗi dậy và tái sinh của vương quốc Hittite cùng lúc với sự suy tàn của người Mitanni. Người Mitanni vốn bị suy yếu bởi những đấu tranh nội bộ đã không còn đủ lực để ngăn chặn những đợt tấn công của Suppiluliumas, vua của người Hittite vào khu vực phía đông đế chế. Sự sụp đổ của người Mitanni mở rộng lãnh thổ của đế chế Hittite đến tận biên giới của Ai Cập. Mặc dù là đồng mình với Mitanni, người Ai Cập lúc này cũng vướng vào những rắc rối nội bộ của riêng họ nên không thể làm gì để can thiệp vào tiến trình trên vốn có ảnh hưởng đến tương lai của toàn bộ khu vực Syria. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Suốt thời kì cai trị của Suppiluliumas , người Hittite làm chủ toàn bộ khu vực phía bắc Syria còn AI Cập đang bị khủng hoảng bởi cuộc cải cách tôn giáo của Akhetanen và những phản ứng ngay sau cái chết của ông ta. Người Ai Cập không chú ý nhiều đến những gì xảy ra ở bắc Syria tuy nhiên vẫn duy trì sự kiểm soát ở Byblot và Ugarit để duy trì sự thông thương. Tuy nhiên không có phản ứng nào từ phía Ai Cập nhằm ngăn chặn người Hittite chủ yếu vì lí do kinh tế suy giảm đã ngăn cản việc thực hiện các chiến dịch quân sự quy mô lớn. Những bất ổn tôn giáo, chính trị và kinh tế xảy ra trong vương triều Akhetanen kéo dài suốt 40 năm. Tuy nhiên một vài khu vực riêng rẻ trong khu vực Levant vẫn duy trì sự trung thành với Ai Cập trong khi số khác từ bỏ hết các hiệp ước trước đây trong bối cảnh chiến trnah hỗn loạn trong khu vực. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Washukhani tiến hành những chiến dịch tiến sâu hơn vào trung tâm Syria và khuyến khích thêm sự bất hòa giữa các thành bang còn trung thành với Ai Cập. Dù gì những tranh chấp giữa AI Cập và Mitanni để kiểm soát khu vực vẫn còn âm ỉ, một khi AI Cập vẫn còn tuyên bố chủ quyền trên khu vực Levant thì một chiến dịch bắc tiến sẽ vẫn được tiến hành. Tuy nhiên phải đợi đến vương triều của Seii I kế vị thì AI Cập mới thật sự ra quân nhằm củng cố vị trí và uy tín của họ trên khu vực Cannaan và vùng Lenvant.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chiến dịch của Seti I </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vị pharaoh thứ 2 của vương triều thứ 19 thể hiện rõ quyết tâm nhằm lấy lại uy tín của Ai Cập như là một quyền lực đế chế ngay trong danh xưng thần thánh của mình là “vị vua khai sinh thời đại”. Trong số 4 chiến dịch quân sự của mình, 3 chiến dịch được ông ta thực hiện vào vùng Levant, ông ta là người đặt nền móng cho cuộc đụng độ nảy lửa giữa Ai Cập và Hittite trong trận Qadesh, một chiến dịch do con trai của ông là Ramases II thực hiện 18 năm sau đó. Tuy nhiên, chiến dịch của ông ta thực hiện vào năm thứ 3 của vương triều chống lại người Libya chỉ cnhằm mục tiêu củng cố lại khu vực phía đông biên giới AI Cập vốn rối ren suốt vương triều 19. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Nhận được tin báo về sự xâm nhập của người du mục và những tranh chấp nổ ra ở bắc Sinai, Seti lập tức cho hành quân tiến về biên giới phía đông vào năm đầu tiên của vương triều. Seti cho quân bắc tiến vì lí do không mấy quan trọng như vậy để che đậy cho mục tiêu lớn hơn là cuộc đột kích vào một loạt thành phố ở Lebanon. Đây có vẻ như chỉ là bước đầu cho một chiến lược dài hơi của Seti vì vào năm thứ 2 ông ta tiến quân bắc tiến xa hơn vào Syria để tấn công Qadesh. Điều này được người Hittite xem như một sự khiêu khích. Rất có thể Seti sẽ thách thức nhiều hơn đối với quyền lực của người Hittite ở bắc Syria nếu không có những vấn đề nghiêm trọng hơn như sự uy hiếp biên giới phía đông từ các bô lạc Libya. Chiến thắng của Ai Cập cho phép thực hiện lại những dự định trên vào thời kì vương triều của Ramases II. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Năm thứ 4 của vương triều chứng kiến cuộc chạm trán chính với người Hittte. Dù bằng chứng không chi tiết nhưng có vẻ quân Ai Cập đã có chiến thắng lớn trong trận đánh ở bắc Qadesh. Rất nhiều quân Hittie tử trận và Seti trở về AI Cập với rất nhiều chiến lợi phẩm và tù binh. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Khi xem xét những bằng chứng về những chiến dịch của Ai Cập chống lại người Mitanni và khoảng thời gian im lắng giữa AI Cập và Hittite cho thấy mối quan hệ giữa hai quyền lực. Dù Seti đã tuyến bố thắng lợi ở bắc Qadesh thì hiệp ước hòa bình với Muwalltalish cho thấy vị trí mong manh của Ai Cập trong khu vực ảnh hưởng. Hiệp ước mang lại sự chia sẻ quyền lực của Ai Cập và Hittite đối với khu vực nhưng không vạch ra được sự phân chia địa giới rõ ràng. Dù sao khu vực Qadesh phải thuộc về lãnh địa Hittie nếu không thì đây đã không là chiến dịch quy mô nhất nhằm kiểm soát thành phố dưới thời vị pharaoh kế tiếp là Ramaese II.</span></b>
<br />
<b style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><br /></span></b>
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiQjNOUbWTZuCpSy9Xm3iDg1XCJD79Lgq4ljTw3ff56NuF_rd-carny-P5mf3UboQbgiZdStdSLg0xNw8w52Nac9NTZCqrqjv2gOCBHYUPxYW1kTlP_AM4q3HFIoYCGLpH_pOwbQAtUENc/s1600/ten+commandments.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="360" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiQjNOUbWTZuCpSy9Xm3iDg1XCJD79Lgq4ljTw3ff56NuF_rd-carny-P5mf3UboQbgiZdStdSLg0xNw8w52Nac9NTZCqrqjv2gOCBHYUPxYW1kTlP_AM4q3HFIoYCGLpH_pOwbQAtUENc/s640/ten+commandments.jpg" width="640" /></a></div>
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiRonAbmnujh4blAUPz161CX3KdPqkhwh5q_YQnCrVNGa_Kaj0imhTUh4tuvT1qcJtnbWDSUntOHMZPRTWqF5XG7TD6lQdyS62duH9Nby9HRBtO4UfbE5TQtyK-viPtIkiNkAGAI9s7PrU/s1600/ramses-chariot.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="360" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiRonAbmnujh4blAUPz161CX3KdPqkhwh5q_YQnCrVNGa_Kaj0imhTUh4tuvT1qcJtnbWDSUntOHMZPRTWqF5XG7TD6lQdyS62duH9Nby9HRBtO4UfbE5TQtyK-viPtIkiNkAGAI9s7PrU/s640/ramses-chariot.jpg" width="640" /></a></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<br /></div>
<b style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><i>Hình trên: Seti I và Ramases II</i></span></b><br />
<b style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><i>Hình dưới : Ramases II ngự trên chiến xa.</i></span></b><br />
<b style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><i>(hình ảnh từ phim Mười điều răn 1956)</i></span></b><br />
<b style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><i><br /></i></span></b>
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<br /></div>
<b id="internal-source-marker_0.048157780431210995" style="font-weight: normal;"><span style="font-family: Arial; font-size: 19px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trận Qadesh</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Ramases II đăng quang ngôi vị pharaoh khi mới 25 tuổi và trở thành chủ nhân của một trong những đế chế mạnh nhất thế giới trong lịch sử cổ đại. Ông này trẻ, sôi nổi, tháo vát đồng thời tràn đầy hoài bão chinh phục lại những vùng đất ở trung tâm Syria mà vương triều thứ 18 đạt được, mặc dù giờ đây nằm trong sự kiểm soát của người Hittite và được công nhận bởi một hiệp ước vốn được kí kết bởi Seti I và Hati. Để thỏa mãn khát vọng đồng nghĩa Ramases II phải tuyên chiến với đối thủ phương bắc của mình. Mặc dù phải đến năm thứ 4 của vương triều ông ta mới đủ lực thực hiện các chiến dịch vào Syria nhưng sự chuẩn bị đã được lên kế hoạch từ rất sớm để phục vụ cho hoài bão cua vị pharaoh chẳng hạn như việc thành lập thêm quân đoàn thứ 4 và mở rộng thành phố Pi-Ramases ở biên giới phía đông nhằm phục vụ như một căn cứ hậu cần cho các chiến dịch ở Levant.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Mùa xuân năm 1301 TCn Ramses II lần đầu tiên dẫn quân tiến vào khu vực Levant. Chuyến hành quân dọc bờ biển Phenecian được đánh dấu bởi những văn bia lập nên rải rác tại Tyre và Byblos. Tiến xa đến tận vùng Simyra, Ramsess sau đó quay lại tiến vào đất liền và tấn công vương quốc Amurru, một chư hầu của người Hittite. Đối đầu với lực lượng Ai Cập và lực lượng của Hittie còn ở rất xà thì vị vua Benteshina không còn lựa chọn nào khác ngoài việc công nhận Ramases là bá chủ. Ramases giờ đây mở được hai hướng tấn công vào Qaesh, một theo ngả thung lũng Bekaa, và một thẳng từ thành Amurru. Chiến dịch thành công và Ramses cho quân đội quay về Ai Cập tràn đầy lạc quan về viễn cảnh chinh phục lại nhưng lãnh thổ “ đã mất”.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEimkB4Fv2dG0RG2p1J-U4DKMj7r54E9jll7gLmkR0xFcGGZl4yS6q0ykWq26gQG7Wc9nK8mcLYVI24jAD96rEUYmv4l45p0ChznUccGPg5DCunsIMcFJZMGET6s7LZxejfmoqnm5zQ3t2M/s1600/32.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEimkB4Fv2dG0RG2p1J-U4DKMj7r54E9jll7gLmkR0xFcGGZl4yS6q0ykWq26gQG7Wc9nK8mcLYVI24jAD96rEUYmv4l45p0ChznUccGPg5DCunsIMcFJZMGET6s7LZxejfmoqnm5zQ3t2M/s640/32.jpg" width="640" /></a><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><i>Hình 32: bức họa ở beit-al-Wali vùng Nubia cho thấy một vị hoàng tử (có thể là Ramases II) mang những kẻ bị chinh phục tới trình diện Seti, hầu hết tù bình là người Syria và Canaanite duy có người cuối cùng là người Libya</i>.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phản ứng của người Hittite</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Rõ ràng đối với Muwatallish thì chiến dịch của người Ai Cập được xem như là nỗ lực thiết lập lại vị trí của họ ở Syria và sau đó tiến vào khu vực phía bắc. Không thể đứng yên thụ động để đánh mất vị trí của đế quốc Hittte, Muwatallish lên kế hoạch ngăn chặn bất cứ chiến dịch bắc tiến nào nữa của người AI Cập. Các chiến dịch đó phải đạt được hai mục tiêu quan trọng: Amurru phải được tái chinh phục và quân đội AI Cập phải bị ngăn chăn để đập tan tham vọng của Ramases. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cả hai bên đều chuẩn bi nhiều tháng để quyết đấu ở chiến trường Qadesh. Người Ai Cập đã nổ lực kiểm thoát thành phố này từ tay người Mitani và sau đó là người Haiti kể từ thời Tuthmosis III. Những nỗ lực và khao khát như vậy xuất phát từ vị trí chiến lược của thành phố: nó không chỉ là chìa khóa quan trọng để tiến vào đồng bằng Elcutheros và Amuurru mà còn là trung tâm chinh phục để Ramases kiểm soát khu vực bắc Syria. Có nhiều sự đề cập đến việc cả hai bên đều chọn Qadesh là nơi để phân định thắng thua. Nhiều bằng chứng cho thấy nhiều nghi lễ ngoại giao được tiến hành nhấn mạnh rằng Qadesh được cả hai thống nhất chọn để giải quyết mâu thuẫn vào đầu tháng năm 1300 TCN. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tuy nhiên khu vực chiến trường mang lại lợi thế lớn cho người Hittite. Muwatallish thực hiện chiến dịch trong khu vực kiểm soát của mình được cung cấp hậu cần bởi các chư hầu trung thành trong khi người AI Cập phải chiến đấu cách xa nhà đến 1600km. Ngoài ra thành phố cũng đủ rộng lớn cho lực lượng Hittie đồn trú và bản thân nó cùng là một pháo đài rất kiên cố với hào sâu che chắn và được bao bọc bởi con sông Oronte. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Lực lượng quân đội do Muwatallish thống lãnh là lực lượng lớn nhất được tập trung trong vương quốc Haiti. Những bằng chứng từ phía Hittie không đề cập chi tiết đến sức mạnh thật sự của đạo quân này nhưng ta có thể tham khảo những bằng chứng từ phái AI Cập trong đó Ramase nói đối đầu với ông ta là vua Hiitite cùng 18 đồng mình và những chư hầu khác với lực lượng lên đến 3700 chiến xa và 37.000 bộ binh. </span></b>
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<br /></div>
<b id="internal-source-marker_0.7348846809472889"><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những chuyển động ban đầu</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Suốt khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 4, thành phố Pi-Ramases trở thành nơi tập kết của một trong những đạo quân đông đảo nhất của Ai Cập. Các đơn vị được phân chia vào bốn đạo quân chính (sư đoàn). Đáng chú ý là việc sử dụng rộng rãi quân đội nước ngoài và càng lúc càng trở thành xu hướng trong những thế kỉ tiếp theo. Lính đánh thuê được tập trung bao gồm người Nubia, người Canaan , người Libya và Sherden. Đặc tính đó của quân đội Ai Cập ngoài tác dụng tăng cường tối đa quân số còn là một chính sách có chủ ý nhằm tăng cường sự đa dạng về sắc dân trong quân đội. Tổng số lực lượng Ai Cập vào khoảng 20.000 người chia đều thành 4 quân đoàn. Chiến xa không được tập trung thành một lực lượng riêng nhưng chắc chắn người Ai Cập phải huy động một số lượng rất lớn cho cuộc chiến.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Rời Ai Cập vào cuối tháng 4, quân AI Cập tiến dọc theo bờ biển tới Gaza, nơi Ramases bắt đầu phân chia quân đội của mình. Ông ta mang lực lượng chính tiếp tục xuyên qua Canaan, vòng qua bờ đông hồ Galilee đến miền nam Lebanon rồi xuyên qua thung lũng Bekaa để đến Kumidi. Lực lương ít hơn chia làm hai cánh quân. Đây là lực lượng tinh nhuệ mà một trong hai đạo quân sẽ là nhân tố quyết đinh trong trận đánh. Lực lượng này tách ra tiến lên phía bắc Gaza dọc bờ biển đến Phenecian. Nhiệm vụ của họ là phô diễn lực lượng nhằm duyt rì sự trung thành của các thành bang Phenecia, mặt khác họ cũng làm chủ ngả đường đến Qasesh thông qua đồng bằng Eleutheros ở Amurru. Vị pharaoh đã ra lệnh cho cánh quân này phải đến đúng hẹn để phục vụ cho chiến lược của mình. Nghiên cứu những bằng chứng về sau cho thấy người Hittite đã chủ quan không đề phòng tới lực lượng thứ 2 này.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Thông tin về cánh quân này không rõ ràng, trong những văn bản về trận Qadesh thì Ramases đơn giản gọi họ là “Ne’ arin” có nghĩa là trẻ . Rất có thể đây là những chiến binh người Canaanite trung thành với pharaoh và được vũ trang tương tự như các chiến sĩ mariyanu, bao gồm các chiến xa và bộ bình phụ trợ đã hành quân kịp vào vùng phụ cận của thành phố và đúng hẹn kì với pharaoh. Một số nhà nghiên cứu xem cánh quân này là quân đoàn thứ 4 mang tên Set của pharaoh.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiz8WXwW30i87NanSzaSAGng3x2DFUqlYVYdZi_fy_GzNJGSrPeUwK-9-eg9Zq38IFPrGxG5NF8NFXtJKliZ4ojPuX1aVHk9QMBfjkMkVDNstrOz8r9tMIFuatp437JgmU_SH4hY_elahE/s1600/32a.jpg" imageanchor="1" style="font-weight: normal; margin-left: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiz8WXwW30i87NanSzaSAGng3x2DFUqlYVYdZi_fy_GzNJGSrPeUwK-9-eg9Zq38IFPrGxG5NF8NFXtJKliZ4ojPuX1aVHk9QMBfjkMkVDNstrOz8r9tMIFuatp437JgmU_SH4hY_elahE/s400/32a.jpg" width="265" /></a><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><i>Hình 32a: Kỹ thuật công thành của người Ai Cập trong giai đoạn này được mô tả rõ ràng torng bản khắc đá này. Nó cho thấy những giai đoạn khác nhau của trận chiến. Đầu tiên bên dưới là cảnh lính bộ quét sạch quân phòng thủ tường thành của đối phương. Phía trên là cảnh lính công thành bằng thang, họ treo khiên ngược ra sau lưng để bảo vệ và được cung thủ bắn vào thành yểm trợ. Một số khác đang cố phá cổng thành bằng rìu </i>.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjNTOy97bUEnxu_ty4RuAjOxsvRxXy3vGTLUNMZxJ0TUQHX68SjN2KlBxTNLusY3yUWVSTvXR46-_QQ-N_DQqJDRdwh_kPvouTO6qCNjtzGvZIbSm9WIrl3YGKUZWoq6D0pvOORgUhZL14/s1600/33.jpg" imageanchor="1" style="font-weight: normal; margin-left: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" height="340" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjNTOy97bUEnxu_ty4RuAjOxsvRxXy3vGTLUNMZxJ0TUQHX68SjN2KlBxTNLusY3yUWVSTvXR46-_QQ-N_DQqJDRdwh_kPvouTO6qCNjtzGvZIbSm9WIrl3YGKUZWoq6D0pvOORgUhZL14/s400/33.jpg" width="400" /></a><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><i>Hình 33 : Vào năm 1214 TCN Seti I thực hiện chiến dịch chống lại người Libya ở phía đông biên giới, bức họa này miêu tả vị thế của pharaoh một cách cổ điển , ông ta cưỡi chiến xa và chém quân địch bằng thanh quodesh, đối phương hầu hết ở trần, một người có mặc áo khoác nhẹ.</i></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chính xác là một tháng sau khi hành quân Ramases cho tiến hành cắm trại với quân đoàn Amun của mình (vào đầu tháng 5) ở khe Kamu’ el Hamel phía nam Qadesh. Ở vị trí lơi thế này thì khu vực đồng bằng và thành Qadesh đã ở trong tầm mắt. 3 quân đoàn còn lại Re, Pta và Set bố trí phía sau nằm cách nhau khoảng 10,5km, đó cũng là bán kính hoạt động hiệu quả của quân đoàn. Sau khi dỡ trại, Ramases và quân đoàn Amun tiếp tục hành quân qua khu vực rừng Labwi, vượt sông Oronte ở chỗ cạn Shabtuna. Tại đây, hai người ả rập du mục Shasu xuất hiện (rất có thể là do vua Hittite phái tới nằm mục đích thám báo) và cho pharaoh biết rằng quân đội của người Hittite không có mặt trong vùng Qadesh mà ở tận xứ Aleppo cách đó 129km. Thông tin này nếu đúng sẽ mang lại lợi thế lớn cho Ramases, ông và có thời gian để xử lí mọi việc và đã sãn sàng khi người Hittite đến kịp. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những sự kiện tiếp theo chỉ có thể hiểu được nếu ta chấp nhận rằng Ramases- mù quáng bởi tham vọng và sự tự tin thái quá đã trở nên bất cẩn. Những bằng chứng cho thấy không có mệnh lệnh nào ban ra để tung quân do thám ra kiểm tra. Nếu điều này là đúng nó cho thấy sự cao ngạo đã lan từ vị pharaoh ra toàn đội quân và khiến cho quân đội trở nên cẩu thả. Các sử gia hay quy trách nhiệm cho vị pharaoh nhưng thật sự việc cả một đạo quân lớn hành quân mà thiếu những tin thám báo mở đường cho thấy sự thiếu chuyên nghiệp của quân đội AI Cập và có lẽ quân đội AI Cập dưới thời Ramases có chất lượng kém hơn nhiều so với quân của Tuthmosis ở trận Meggido. Nếu quân do thám của người Ai Cập được tung ra thì hẳn đội quân của Muwatallish đã bị phát hiện ở phía đông thành Qadesh.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Và Ramases tiến tục tiến quân và choq uân đoàn Amun hạ trại phía tây bắc thành phố mà không hề biết đến sự hiện diện của người Hittite ở nờ xa phía đông con sông Oronte. Quân đoàn Re lúc này áp sát chỗ cạn Shabtuna. Khi được do thám báo cáo bước di chuyển của quân đoàn Re, hẳn Ramases có thêm phần phấn chấn trong khi Muwalltalish còn vui hơn vì lừa được Ramases từ thông tin của hai kẻ du mục Shasu. Giờ đây ông ta cũng tung ra lực lượng do thám để định vị chính xác vị trí quân đội của Ramases. Hai trong số này đã bị quân AI Cập bắt được và bị kéo lê tới trình diện pharaoh, sau khi bị tra khảo họ đã khai rằng :</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">‘Hoàng thượng hỏi “ các ngươi là ai”, “chúng tôi là tôi tớ của vua Haiti, người đã cử chúng tôi tới xem bê hạ đang ở đâu”. Hoàng thượng lại hỏi “ Ông ta ở đâu, vua của người Haiti?, hiểu chứ, ta nghe nói ông ta đang ở Aleppo, phía bắc Tunip”. Họ trả lời “ Bệ hạ hãy chú ý, vua Haiti ở đây, ông ta mang theo quân đội và các đồng mình để tấn công ngài ở Qadesh đấy”. ‘</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Trận chiến</span></b><br />
<br />
<b><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Phản ứng của vị pharaoh lòng đầy hoài nghi là cho gọi một cuộc thảo luận khẩn với các sĩ quan cấp và kết quả là lệnh triệu hồi ngay lập tức các quân đoàn Pta, Set đến Qadesh. Trong lúc chờ 2 quân đoàn này tới thì Ramases phải dựa vào lực lượng của 2 quân đoàn Amun và Re để chống lại cuộc tập kích bất ngờ của quân Hittite. Nhưng đây là điểm mang lại thất vọng cho vị pharaoh. Ngay lúc quân đoàn Re băng qua đồng bằng để đến vị trí trại của Amun thì Amuwallish ra lệnh tấn công từ bên cánh của đạo quân đang di chuyển. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Rời khỏi vị trí ẩn nấp, một lượng lớn chiến xa Hittite vượt sông Orontes tiến thẳng vào Qadesh và tấn công thẳng vào sườn của quân đoàn Re. Lớp chiến xa bảo vệ của quân AI Cập ngay lập tức bị quét sạch bởi sức nặng của chiến xa Hittite. Số lượng quân Hittie tấn công là không rõ nhưng chắc chắn phải áp đảo quân số của quân đoàn Re, tuy nhiên không đến con số khổng lồ là 2500 chiến xa mà Ramases đề cập vốn được nhiều nhà nghiên cứu trích dẫn . Con số đó có lẻ ám chỉ cả đội quân tấn công chứ không phải tính riêng số lượng chiến xa vượt sông Oronte để tấn công. Nó cũng chỉ ra những số liệu không đáng tin cậy của Ramases về sau.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Với việc chiến xa AI Cập bị quét sạch thì lính bộ binh vốn chưa kịp chuẩn bị bị tan rã hoàn toàn. Sự khủng hoảng lan khắp cả quân đoàn và binh lính bỏ chạy tứ tán, một số cố chạy lên phía bắc đến trại của Amun. Từ vị trí cao ở trại Amun có lẽ cảnh tượng trên cánh đồng đã đập vào mắt các quân sĩ và người Ai Cập hẳn cảm thấy tình hình rơi vào thế tuyệt vọng với việc quân lính bỏ chạy và bị chiến xa Hittie đuổi sát . Cơn lốc hàng ngàn chiến xa tạo nên bức tường bụi khổng lồ và bước chân của hàng nghìn ngựa chiến hẳn tạo nên tiếng động như sấm rền. Một lượng lớn bộ binh bị chiến xa hạ gục khi cố chạy về trại Amun và đến lúc này đến lượt binh lính ở Amun hoảng loạn, rời vị trí và chạy trốn ngay khi chiến xa Hittie phá vỡ hàng rào phía tây. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Chứng kiến cảnh tượng trên từ khu trại của mình ở gần quân đoàn Amun. Ramases đã hành động như là bước đi cuối cùng nhằm cứu vãn tình thế khỏi biến thành thảm họa. Khoác giáp trụ lên người, vị pharaoh ngự chiến xa tiến thẳng về phía quân thù để quyết chiến một mất một còn. Tiến lên trận tuyến, vị pharaoh cũng ra sức tập hợp lại binh lính bỏ chạy và tấn công chớp nhoáng vào lực lượng Hittie với một lực lượng có lẽ là chỉ một ít chiến xa tinh nhuệ tùy tùng của mình. Đột kích vào sươn đông của quân Hittie, lực lượng nhỏ chiến xa Ai Cập này đã gây tổn thất cao và phá vỡ sự cố kết cũng như sự vận động của đội hình quân Hittite.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Tận dụng tốc độ và khả năng cơ động của chiến xa Ai Cập, Ramases cùng binh linh hộ tống đã loại khỏi vòng chiến một lượng đáng kể chiến xa Hittite. Với một sự dữ dội đến tuyệt vọng vị pharaoh dẫn quân tấn công, rồi vòng lại tấn công như vậy liên tiếp sáu lần liên tục. Trong lúc đang hỗn chiến nhiều khả năng quân Hittite cũng không biết lực lượng nào đang tấn công mình. Nhưng ở vị trí quan sát từ trại của Muwalltalish thì vua Hittite hẳn đã thấy Ramase đang tập hợp quân phản công, ông này quyết đinh tung ra đội quân chiến xa thứ 2 để hỗ trợ cho đạo quân thứ nhất lúc này đang gặp rắc rối.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Một lần nữa chúng ta lại gặp phải vấn đề về quân số. Nó không thể ở con số 1000 chiến xa, trong lúc khẩn cấp hẳn Muwatallish phải huy động chiến xa ở vùng phụ cận Oronte để tấn công Ramases ngay lập tức. Ông ta hẳn có gì dùng đó , tức là dùng cả chiến xa hộ tống của mình để tấn công, những người cũng quan sát thấy sự phản công của Ramasess. Họ băng qua sông Orontes nhưng thay vì đón đầu Ramases họ tiến thẳng vào trại của ông này nhằm mục đích phân tán sự chú ý của vị pharaoh lúc này đang tảo thanh đội chiến xa Hittite thứ nhất. Tuy nhiên sự xuất hiện của đạo quân Ne'arin đã ngăn cản dự định này. Họ tấn công vào đạo quân Hittie đang di chuyển và sau đó gia nhập với lực lượng của Ramases. Kết quả của việc này là chỉ một số ít chiến xa Hittite của đạo thứ 2 bỏ chạy được băng ngang sông, và trong số những người bị hạ sát có rất nhiều quý tộc đẳng cấp cao bên phía Muwatallish và chư hầu. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào cuối ngày thì vị pharaoh cũng xoay xở để củng cố được thế trận. Quân đoàn Amun được tập hợp lại và lực lượng của Pta cũng sắp tiến tới được Qadesh. Sau trận đánh có vẻ như Ramases đã cho trừng phạt nhiêm khắc đối với lính bỏ chạy mà trong mắt ông ta không khác gì quân bội phản, theo một số học giả thì ngày hôm sau pharaoh đã cho xử tử 1/10 binh lính của mình ngay trước sự quan sát của vua Hittite. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Kết quả</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Đề nghị bãi binh như là cơ sở để thiết lập hòa bình của vua Hittite được pharaoh chấp nhận. Khi không còn những tham vọng vươn xa về lãnh thổ, Ramases không còn tiến hành chiến dịch nào trong lãnh thổ được công nhận của Hittte nữa. Dù pharaoh vẫn tấn công Amurru thời gian 3 năm sau trận Qadesh thì đối với người Hiitte, đó không phải là sự khiêu khích bởi bản thân họ còn đang lo đối phó với sự trỗi dậy của đế chế Assyria ở phía đông và những vấn đề ở phía bắc vương quốc. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Vào năm 21 của vương triều Ramses, Ai Cập đã kí hiệp ước hòa bình chính thức với vương quốc Haiti. Đánh dấu bởi hôn nhân giữa con gái của vua Hitite và vị pharaoh hiệp ước mang lại hòa bình và phân chia lãnh thổ ở vùng Syria. Tuy Ramases không thể lặp lại thành tích của tiên vương Tuthmosis nhưng ông đã mang lại bản hòa ước đáng ghi nhớ giữa hai đế chế cho đến tận khi quyền lực thứ 2 bị làn sóng di dân ở vùng trung đông cuống phăng. Tuy nhiên cho đến lúc ấy thì vị pharaoh cũng đã ngủ yên dưới mồ gần 50 năm.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj_M2CDIAKwbnY-U-62pf5h55ZTMmMTSktiU9qqSg51yJyiP4YBFIgH25i4NVp9fDo_7HkgBpyIR6wtw9-mLJBSqdERjA7DGaIF5Y3SkhM2JY94qRH_Z6fkfr732s18up3tofpKiMGAp_E/s1600/qadesh-1234.jpg" imageanchor="1" style="font-weight: normal; margin-left: 1em; margin-right: 1em; text-align: center;"><img border="0" height="538" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj_M2CDIAKwbnY-U-62pf5h55ZTMmMTSktiU9qqSg51yJyiP4YBFIgH25i4NVp9fDo_7HkgBpyIR6wtw9-mLJBSqdERjA7DGaIF5Y3SkhM2JY94qRH_Z6fkfr732s18up3tofpKiMGAp_E/s640/qadesh-1234.jpg" width="640" /></a><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><i><br /></i></span></b><br />
<b><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><i><br /></i></span></b>
<b><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><i><br /></i></span></b>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEganEc4pmY9n5z8YkVhErAB_mRJxkmkbP-70_HpyqOjmG2nEBwBUL6y_EkpH6TvjpMwj4HS5gR67mdf-QLDr15KH545vIRgHox9rcniW6YoN4HBg-mU3YVGt6s5Lel1f3HRpXMAUHsX9bE/s1600/34.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="288" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEganEc4pmY9n5z8YkVhErAB_mRJxkmkbP-70_HpyqOjmG2nEBwBUL6y_EkpH6TvjpMwj4HS5gR67mdf-QLDr15KH545vIRgHox9rcniW6YoN4HBg-mU3YVGt6s5Lel1f3HRpXMAUHsX9bE/s640/34.jpg" width="640" /></a></div>
<b><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><i><br /></i></span></b>
<b><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><i>hình 34: Cuộc trạm trán chính giữa AI Cập và Hittite xảy ra dưới vương triều của Ramases. Ở một trong những trận chiến hào hùng nhất của lịch sử cổ đại vị pharaoh và đạo quân đã ở ngưỡng cửa bị tiêu diệt. Tuy nhiên ở nhiều địa điểm rải rác khác nhau vị pharaoh đã cho khắc đá để ghi nhớ trận đánh. Bản khắc này ở đền Luxor cho thấy vi pharaoh đã đột kích vào lực lượng lớn của quân Hittite và bằng “sự dũng cảm quyền lực” buộc họ bỏ chạy băng qua sông Oronte vốn chảy vòng quanh Qadesh. Ở phía dưới là Muwatallish đang bất lực đứng nhìn từ bờ trên kia. Vi vua Hitiite cỡi trên chiến xa cùng bộ binh hộ tống.</i> </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những kẻ đến từ biển</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: bold; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cái chết của pharaoh Merneptah vào năm 1223 TCN đánh dấu giai đoan suy tàn nhanh chóng của Ai Cập thời kì Tân vương quốc. Merneptah đã để lại một vương quốc tương đối lớn mạnh vẫn còn nhiều quyền lực. Cuộc nội chiến của vương triều kế tiếp đóng lại kỷ nguyên của vương triều thứ 19 cho đến khi Sethnakhte, vị pharaoh của vương triều 2 kế vị năm 1200 TCN. Người kế vị của ông ra, Ramaese III là vị pharaoh vĩ đại cuối cùng của thời kì tân vương quốc, người đã chứng kiến đế chế Ai Cập sụp ở vùng Levant cũng như những quốc gia khác ở vùng trung cận đông bởi một làn sóng xâm lăng từ những người di cư được mang tên “ những kẻ đến từ biển”.</span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Những kẻ Ramases III đề cập thật ra đã được AI Cập biết đến từ trước. Vào năm 50 của vương triều Merneptah (1229 TCN), một làn sóng người di cư từ bờ biển xâm nhập Ai Cập từ phía tây. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Họ đến để định cư vì họ mang theo cả gia đình và xây dựng pháo đài và công sự. Những bộ lạc Bắc phi bản địa thuộc cổ vương quốc Ai Cập (người Libu, Meshwesh và Kehek) đã liên minh với những kẻ mà về nguồn gốc được cho là xuất phát từ bờ biển Aeean và Tiểu Á. Những người này bao gồm cả dân Sherden, Sheklesh, Lukka, Tursha, Akawasha. Những người này đã thâm nhập sâu vào Ai Cập đến tận ốc đảo Farafra và và Canopic ở ven bờ sông Nile trước khi pharaoh đánh bại họ. </span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br /><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Gốc gác của làn sóng di dân thứ 2 này nói chung vẫn được xem như lần trước. Tuy vậy một số học giả vẫn còn đang tranh luận sự khác nhau về mặt dân tộc học của những nhóm người này. Pharaoh Ramases II đã đẩy lùi hai đợt xâm lấn vào những năm 1193 và 1187 TCN nhưng hiểm họa lớn nhất xuất hiện vào năm thứ 8 của vương triều khi mà những quyền lực cũ ở cả vùng cận đông bị cuốn phẳng bởi “ Những kẻ nước ngoài mang theo một âm mưu kinh khủng. Trong chốc lát, tất cả các lãnh địa bị tan rã và cuốn phăng đi mất. không nơi nào trụ được trước đạo quân ấy từ Haiti, Kode, Carchemish, Arzawar cho đến Alashiya bị hạ cùng một lúc. Một khu trại được lập ở Amurru (đất lebanon) . Bọn chúng tàn sát mọi người và phá hủy đất đai. Bọn chúng đang tiến về Ai Cập trong lúc lửa đã được chuẩn bị. tập hợp của bọn chúng bao gồm lũ Peleset, Tjeker, Sheklesh, Denyen và Meshwesh, một liên minh của lũ cướp đất.”</span></b><br />
<span style="font-family: Arial;"><span style="font-size: 15px; white-space: pre-wrap;"><br /></span></span>
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiooVO3ZghuWOOSNkgteKhh-bvUqv-ZRVpl_tcGWo0QtuInH9sfjLig4exSd7NYHaMNoUFHJ9M9WS2JFIV1IuD6rto3y1T-1MQa0y3lU6oFiETz3pnEDdiG-9kvxjr-ctBYpAO05rVQzDU/s1600/37.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiooVO3ZghuWOOSNkgteKhh-bvUqv-ZRVpl_tcGWo0QtuInH9sfjLig4exSd7NYHaMNoUFHJ9M9WS2JFIV1IuD6rto3y1T-1MQa0y3lU6oFiETz3pnEDdiG-9kvxjr-ctBYpAO05rVQzDU/s640/37.jpg" width="472" /></a></div>
<span style="font-family: Arial;"><span style="font-size: 15px; white-space: pre-wrap;"><br /></span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span>
<span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">“Bọn người đi biển” tiến vào Ai Cập cả từ biển và trên đất liền. Rõ ràng đây là một hiểm họa lớn laomà Ai Cập chưa từng gặp phải. Tất cả những thành bang phía nam Canaan vốn được cảnh giữ bởi những chiến binh mariyyanu đã không còn và giờ đây làn sóng di cư như đổ bộ trực tiếp vào biến giới Ai Cập. Quân phòng thủ bây giờ là chiến xa và bộ binh Ai Cập cùng với lính hỗ trợ Sherden. Trong số những lính chiến đấu được miêu tả ta thấy có cả chiến xa hang nặng 3 người kiểu Hiitte. Hình ảnh của những kẻ xâm lấn “ làn sóng người di chuyển” được miêu tả đầy đủ trên bức tường của Medinet Habu cho thấy lính AI Cập chiến đấu với kẻ thù mang theo cả những cổ xe bò chở phụ nữ và trẻ em. </span><br />
<span style="font-family: Arial;"><span style="font-size: 15px; white-space: pre-wrap;"><br /></span></span><span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Cuộc tấn công từ biển cũng giống như trên bộ, đã bị đập tan. Ramases tuyến bố trận đánh đã diễn ra ở châu thổ Delta. Nơi những người AI Cập đã có sự chuẫn bị kỹ lưỡng “ Ta đã phủ kín miệng sông với tàu chiến, tàu vận chuyển và tàu buôn, tất cả được vũ trang từ đỉnh tàu tới đuôi với những lính dũng cảm trang bị sẵn sàng. “ Một lần nữa bản khắc tại Medinet Habu cho ta cái nhìn toàn cảnh về trận chiến. Rõ ràng thuyền nhẹ Ai Cập đã dụ cho đối phương tiến sát bờ vịnh nơi họ có thể tán công bằng cung tên từ bờ sông. </span><br />
<span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br />
<span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;">Bất chấp tuyên bố về chiến thắng hoành tráng của Ramases III, những kẻ xâm lấn vẫn thâm nhập và định cư tại vùng Palestine. Hơn một thế kỷ sau đó thì cái chết của Ramases XI khép lại vương triều 20 và cùng với đó là kỷ nguyên của Ai Cập thời kì Tân Vương Quốc.</span><br />
<span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br />
<span style="font-family: Arial; font-size: 15px; font-weight: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"></span><br />
<div style="font-weight: bold; text-align: center;">
<b id="internal-source-marker_0.7348846809472889"><span style="font-family: Arial; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap;"><span style="font-size: large;">Hết</span></span></b></div>
</div>
Unknownnoreply@blogger.com0