Ảnh

Ảnh

Thứ Ba, 21 tháng 2, 2012

Văn minh cổ Trung Hoa

http://hk.chiculture.net/0102/html/d29/images/d29_right.jpg  


Phạm vi phân bố của văn hóa Long Sơn 


Trên bản đồ, màu vàng là các tỉnh Sơn Đông, Sơn Tây, Hà Nam,Thiểm Tây



http://www.nmh.gov.tw/Files/UpData/History/Img/20071031_3.gif  


Bản đồ khái quát cương vực thời kì đồ đá mới ở Trung Quốc 


Thời kì đồ đá mới 


Năm 6000 TCN Khai sinh văn hóa Bùi Lí Cương, di chỉ ở phía bắc 
tỉnh Hà Nam ngày nay 


Năm 5100 TCN Khai sinh văn hóa Bùi Lí Cương, di chỉ phổ biến 
ở phía bắc lưu vực sông Liêu 


Năm 5000 TCN Khai sinh các nền văn hóa Ngưỡng Thiều, 
văn hóa Bắc Tân, văn hóa Hà Mẫu Độ kế tiếp nhau, 
di chỉ phân bố ở lưu vực sôn Hoàng Hà và 
hạ du sông Trường Giang 


Năm 4500 TCN Khai sinh văn hóa Mã Gia Diêu, di chỉ ở 
vùng tam giác châu sông Trường Giang 


Năm 4000 TCN Khai sinh các nền văn hóa Đại Vấn Khẩu, 
văn hóa Đại Khê văn kế tiếp nhau, di chỉ phân bố ở 
dụ du sông Hoàng Hà và trung du sông Trường Giang 


Năm 3000 TCN Khai sinh văn hóa Khuất Gia Lĩnh, văn hóa Thạch Hiệp, 
di chỉ phân bố ở các tỉnh Hồ Bắc và Quảng Đông 
ngày nay 


 Năm 2600 TCN Khai sinh văn hóa Long Sơn, di chỉ phân bố ở 
lưu vực sông Hoàng Hà; mở ra thời kì Hoàng Đế 
truyền thuyết cổ sử Trung Quốc 


 Năm 2500 TCN Khai sinh văn hóa Lương Chử, 
di chỉ ở các tỉnh Chiết Giang và phía nam 
tỉnh Giang Tô ngày nay 




Thời đại đồ đá mới 


Thời đại đồ đá mới ở Trung Quốc (khoảng 3500 - 1500 TCN) bắt đầu có xuất hiện một số xã hội nông nghiệp, bởi vì con người thời kì này theo đuổi việc làm nghề trồng trọt và chăn nuôi, tương đối giữ gìn được tính ổn định, do đó cởi bỏ được sức lao động trong xã hội để theo đuổi hoạt động công nghệ, khiến cho văn hóa phát triển nhanh chóng. Di chỉ thời kì đồ đá mới phát hiện được ở Trung Quốc rất nhiều, các vùng trong cả nước đều có phát hiện, theo đó mà nói thì phân bố chủ yếu ở xung quanh lưu vực sông Hoàng Hà. Bấy giờ khí hậu ở vùng sông Hoàng Hà có ẩm ướt ấm áp hơn so với ngày nay, rừng cây sum suê, có nhiều loài động vật hoang dã, hồ và đầm ao có khắp miền bắc Trung Quốc. Cây trồng chủ yếu ở thời kì đồ đã mới là lúa tắc, lúa nếp; đồ vật đại biểu là đồ gốm. 


Văn hóa Ngưỡng Thiều (năm 4000-2000 TCN) 


Vì phát hiện sớm nhấy ở di chỉ thôn Ngưỡng Thiều - huyện Yểm Trì - tỉnh Hà Nam mà có tên ấy, là văn hóa giữa thời đại đồ đá mới. Một phái cho rằng tiền thân của văn hóa Ngưỡng Thiều là văn hóa Lão Quan Đài, văn hóa Lí Gia Thôn, Văn hóa Từ Sơn, văn hóa Bùi Lí Cương. Văn hóa Ngưỡng Thiều phân bố chủ yếu ở trung tâm vùng đất Trung Nguyên nơi hội tụ của lưu vực sông Hoàng Hà là các nhánh sông Vị, sông Phân, sông Lạc. Nền móng ở cùng tây bắc và miền Quan Trung có văn hóa đặc trưng không giống nhau, lại chia thành văn hóa Ngưỡng Thiều ở vùng Trung Nguyên và văn hóa Ngưỡng Thiều ở vùng Cam Túc. 


Văn hóa Hồng Sơn (năm 4000-3000 TCN) 


Di chỉ ở thành phố Xích Phong - tỉnh Nội Mông Cổ, là văn hóa cuối thời đại đồ đá mới, phân bố chủ yếu ở phía đông nam tỉnh Nội Mông Cổ, phía tây tỉnh Liêu Ninh, phía bắc tỉnh Hà Bắc. Phát hiện khá nhiều đồ vật làm bằng ngọc, không có nhiều các loại đồ gốm nhưng có vẻ đặc trưng. 


Văn hóa Mã Gia Diêu (năm 3300-2650 TCN) 


Vì phát hiện ở thôn Mã Gia Diêu - huyện Lâm Thao - tỉnh Cam Túc mà có tên ấy, thuộc văn hóa cuối thời đại đồ đá mới. Phân bố chủ yếu tại vùng thượng du sông Hoàng Hà. 


Văn hóa Lương Chử (năm 3300 - 2200 TCN) 


Vì phát hiện ở thị trấn Lương Chử - huyện Dư Hàng - tỉnh Chiết Giang mà có tên ấy, thuộc văn hóa cuối thời đại đồ đá mới, phân bố chủ yếu ở vùng Thái Hồ. Đồ gốm đặc trưng là đồ gốm màu đen, chế tác sáng đẹp. Đồ ngọc điêu khác cũng tinh xảo, có nhiều chủng loại. 


Văn hóa Long Sơn - tỉnh Sơn Đông (năm 2500 - 2000 TCN) 


Vì phát hiển ở thị trấn Long Sơn - huyện Chương Khâu - tỉnh Sơn Đông mà có tên ấy, thuộc văn hóa cuối thời đại đồ đá mới. Phân bố chủ yếu ở giữa và phía đông tỉnh Sơn Đông, vùng phía bắc sông Hoài của tỉnh Giang Tô. Cư dân ở đây lấy việc trồng cây lúa tắc trên ruộng khô, chăn nuôi các loài gia súc như heo, bò, dê, chó và đánh bắt cá là chủ yếu. Kế thừa kĩ thuật chế tác đồ gốm của văn hóa Đại Vấn Khẩu, chế tác thành đồ gốm màu đen, vỏ gốm sáng mỏng như vỏ trứng. 


nguồn Diễn đàn Việt học

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2012


Nhà Trần khởi nghiệp


Trần Việt Bắc
Lời tựa:
Để bảo vệ Việt Nam thoát khỏi sự xâm lăng của bắc phương thì nhà Trần đã có công vào bậc nhất. Ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông, một đội quân đã chinh phục Trung Hoa và nhiều nước khác từ Á qua Âu. Nhà Trần thay nhà Lý, sau đó đã lãnh đạo đất nước để chống lại đội quân kiêu hùng này. Sự thay đổi triều đại là một chính biến rất lớn lao. Biến cố này cũng tương tự như sự thay đổi thể chế miền nam Việt Nam hồi 30 năm trước. Biết bao nhiêu sách vở và tài liệu đã nói tới việc này. Tuy nhiên việc thay đổi triều đại từ Lý sang Trần chỉ được bộ chính sử của Việt Nam là Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (ĐVSKTT) ghi lại sơ sài. Nguyên nhân và diễn tiến việc nhà Trần bước vào chính trường chỉ được viết chưa đầy một trang giấy . Tiếp theo là bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (KĐVSTGCM) của Quốc Sử Quán triều Nguyễn cũng không thêm được những gì có chi tiết mới hơn. Thời cận đại thì có Việt Nam Sử Lược của ông Trần Trọng Kim, Việt Sử Toàn Thư và Việt Sử Tân Biên của ông Phạm Văn Sơn cũng chỉ ghi lại một cách giản lược những nguyên nhân và diễn tiễn, dựa theo hai bộ ĐVSKTT và KĐVSTGCM.
May mắn là cổ sử của Việt Nam còn lại được quyển Đại Việt Sử Lược (ĐVSL) của tác giả Khuyết Danh đã ghi thêm khá nhiều chi tiết về những diễn tiến này . ĐVSL đã được viết trong thời Trần Phế Đế (1377-1388). Khá nhiều những sử liệu trong sách này được dùng để tham khảo cho bài viết này.
Vì muốn học hỏi và hiểu biết thêm sử về nước nhà, người viết đã mạo muội viết ra những suy nghĩ thô thiển của mình, mong được chỉ bảo thêm để sửa chữa những sai lầm và thiếu sót.
Kính.
Phần 1: Họ Trần tham chính
Nhà Trần lên làm vua thay nhà Lý sau một cuộc chính biến không đổ máu với câu tuyên bố của Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ : "Bệ hạ (1) đã có chồng rồi”, các quan đều vâng lời, xin chọn ngày vào chầu. (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư-ĐVSKTT).
Rồi sau đó là bài chiếu “…… nói "Quân tử tìm bạn, tìm mãi không được, thức ngủ không nguôi, lâu thay lâu thay". Nay trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần Cảnh(1) là người văn chất đủ vẻ, thực thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi đường hoàng, có tư chất thánh thần văn võ, dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn được. Sớm hôm nghĩ chín từ lâu nghiệm xem nên nhường ngôi báu, để thỏa lòng trời, cho xứng lòng trẫm, mong đồng lòng hết sức, cùng giúp vận nước, hưởng phúc thái bình. Vậy bố cáo thiên hạ để mọi người điều biết". Tháng 12, ngày mồng một Mậu Dần, Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, ngự trên sập báu, các quan mặc triều phục vào chầu, lạy ở dưới sân.
Chiêu Hoàng bèn trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế”. Đổi niên hiệu là Kiến [34b] trung năm thứ 1, đại xá thiên hạ, xưng là Thiện Hoàng , sau đổi là Văn Hoàng. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Khải Thiên Lập Cực Chí Nhân Chương Hiếu Hoàng Đế. Phong Trần Thủ Độ làm Quốc thượng phụ, nắm giữ mọi việc cai trị trong nước”.

Sự thật như thế nào? Kết quả thì rõ ràng là nhà Trần lên làm vua thay nhà Lý sau 216 năm làm chủ đất nước, từ khi Lý Thái Tổ lên ngôi năm1009 tới khi Lý Chiêu Hoàng (2) nhường ngôi cho Trần Cảnh (3) năm 1225.
Sao lại có chuyện “đảo chính” dễ dàng đến như vậy! Việc thay đổi một triều đại đã xảy ra chỉ vì việc tảo hôn của hai đứa trẻ, khi nam và nữ chỉ mới tám tuổi !
Những người biết qua về sử Việt đều hiểu rằng đây là một âm mưu có tính toán từ trước.
Vậy những nguyên nhân nào đã đưa đến cuộc hôn nhân này?
Hầu hết các sử gia xưa, cũng như mới đây đã viết về của cuộc thay đổi triều đại Lý sang Trần, đều cho là sự việc đã chớm mào từ cuộc hôn nhân của Thái tử Lý Sảm và bà Trần Thị Dung, con gái ông Trần Lý .
ĐVSKTT: “[26a] Vua [lánh] đến miền Quy Hóa giang ….
“Hoàng thái tử [Sảm] đến thôn Lưu Gia ở Hai Ấp nghe tiếng con gái của Trần Lý có nhan sắc, bèn lấy làm vợ. Nhà Trần Lý nhờ nghề đánh cá nên giàu, người quanh vùng theo về, nhân có quân chúng, cùng nổi lên làm giặc. Thái tử đã lấy con gái của Lý, trao cho Lý tước minh tự, phong cho cậu người con gái ấy là Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ.

Ngô Sĩ Liên nói: Thái tử [Sảm] đi lần này là vì nước loạn mà tránh nạn, sao lại buông lòng dâm dục ở ngoài mà tự tiện phong tước cho người? Bởi cao Tông rong chơi vô độ, giường mối bỏ hỏng, cho nên mới thế. Nhưng họ Lý nhân thế mà vong, họ Trần nhân thế mà hưng, ấy là do trời cả”.
Thái tử Sảm đến nhà Trần Lý, gặp con gái ông là Trần Thị Dung, say mê nhan sắc của cô, sau đó cưới cô và phong chức Minh tự cho cha vợ là Trần Lý; cùng chức Điện tiền chỉ huy sứ cho Tô Trung Từ là cậu của Trần Thị Dung. Quyền bính dần dần vào tay họ Trần, kết quả là việc thay đổi triều đại. Trần Cảnh lên ngôi, vua đầu tiên của nhà Trần.
Trần Lý là ai? Tô Trung Từ là ai ? Sự việc có đơn giản như ĐVSKTT chép hay không? Người viết trước hết xin trình bày vài điều về gia phả họ Trần, dựa theo ĐVSKTT .

Gia phả họ Trần
Theo như ĐVSKTT thì tổ của nhà Trần là ông Trần Kinh , ông này sinh ra Trần Hấp. Ông Trần Hấp sinh ra ông Trần Lý. Tới đây, hậu thế chỉ biết tới ông Trần Kính là ông nội của ông Trần Lý. Những đời trước ông Trần Kính thì không thấy sử liệu nào nói rõ ràng.
Việt Sử Khâm Định Thông Giám Cương Mục (VSKĐTGCM):
“Tổ phụ Trần Thừa tên là Kinh, người làng Tức Mặc, sinh con là Hấp, Hấp sinh con là Lý, Lý sinh ra Thừa, đời nào cũng chuyên nghề đánh cá; Thừa lấy vợ là Lê Thị sinh ra nhà vua”.
Gia phả tộc Trần tới khi Trần Cảnh lên làm vua:
1-Trần Kinh
2-1 Trần Hấp
3-1 Trần Lý (?-1210)
4-1 Trần Thừa (1184-1234): thọ 51 tuổi
5-1 Trần Liễu (1211-1251)
5-2 Thụy Bà Công Chúa
5-3 Thái Tông Trần Cảnh (1218-1277):thọ 61 tuổi
5-4 Khâm Thiên Vương-Trần Nhật Hiệu (1225-1269)
5-5 Hoài Đức Vương Trần Bá Liệt
4-2 Trần Tự Khánh (?-1223)
4-3 Trần Thị Dung (1195-1259): 65 tuổi
4-4 Trần Tam Nương (gả cho Nguyễn Đường)
4-5 Công chúa Ngoạn Thiềm (được gả cho Nguyễn Nộn)
3-2 Trần ? (4)
4-1 Trần An Quốc
4-2 Trần Thủ Độ (1194-1264)
Theo như phả hệ đồ trên thì ông Trần Lý là con cả ông của Trần Hấp và ông là anh của thân phụ ông Trần Thủ Độ.
Sự liên hệ của họ Trần với quan nhà Lý .
Thời vua Lý Cao Tông (5), đất nước loạn lạc, nhà vua thì ăn chơi, giặc cướp nổi lên khắp nơi. Ông Trần Lý lúc này giầu có nên cũng có nhiều người tới theo. Giòng họ Trần lúc này cũng có quân đội riêng mặc dù đây chỉ là hương binh, có lẽ để tự bảo vệ hay cũng có thể đợi thời cơ và như ĐVSKTT viết : “…cùng nổi lên làm giặc”. Người viết xin lạm bàn về nguyên nhân và diễn biến chuyện “nổi lên làm giặc” của dòng họ Trần ở Thiên Trường.
Như sử liệu đã viết,con gái ông Trần Lý là Trần Thị Dung có người cậu là Tô Trung Từ. Vợ ông Trần Lý là chị của Tô Trung Từ. Họ Tô ở Đại Việt không có nhiều, chúng ta chỉ thấy có ông Tô Hiến Thành là nhân vật nổi tiếng hơn cả trong thời này.
Ông Tô Hiến Thành làm Phụ chính đại thần cho vua Cao Tông (lên ngôi năm 1176) khi ông vua này mới được 3 tuổi. Ông đã có công dẹp giặc Thân Lợi (1141 thời Anh Tông). Dẹp giặc Ngưu Hồng và Ai Lao (1159, thời Anh Tông). Mang quân đánh Chiêm Thành ( năm 1167), Chiêm Thành xin hoà và triều cống. Được vua Anh Tông cử giúp đỡ Thái tử Long Trát và sau đó đã được cử nhiếp chính khi ông vua này băng . Ông nổi tiếng thanh liêm (6). Ông bị bệnh và mất năm 1179 khi vẫn đang làm Thái úy.
Vậy Tô Trung Từ với bà chị -vợ ông Trần Lý- có liên hệ gì với ông Tô Hiến Thành ? Theo như gia phả của dòng họ Trần- Phước ở Nam Định thì vợ ông Trần Lý là hậu duệ của ông Tô Hiến Thành. Là con hay cháu nội? Chúng ta thử làm bài tính về tuổi tác để phỏng đoán sự liên hệ này.
Năm 1184, con trưởng ông bà Trần Lý là ông Trần Thừa (thân phụ Thái Tông Trần Cảnh) chào đời. Vậy bà họ Tô vợ ông Trần Lý có lẽ khoảng 18-20 tuổi, người viết phỏng đoán năm sinh của bà khoảng 1165. Lúc này ông Tô Hiến Thành đang làm quan với chức Đô tướng dưới triều Lý Anh Tông. Rất có thể bà là con gái của ông Tô Hiến Thành.
Dù bà họ Tô hay ông Tô Trung Từ là con hay cháu nội, thì ông Trần Lý đã có những liên hệ gián tiếp với triều đình nhà Lý qua việc làm rể họ Tô . Ông Lý đã hiểu rõ những việc xảy ra trong cung đình: vua Cao Tông thì ăn chơi hoang phí, quan lại gian tham, dân chúng đói khổ (7), cướp bóc nổi lên khắp nơi (8), nhà Lý đang suy vong. Giàu và có quân lính (hương binh) trong tay, họ Trần chờ cơ hội thuận tiện để bước vào chính trường.
Loạn Quách Bốc
Năm 1208, Phạm Du là tri phủ Nghệ An làm phản, “cho người đi cướp bóc khắp nơi” (ĐVSKTT) , vua Cao Tông sai hoạn quan Phạm Bỉnh Di đi đánh. Phạm Du thua, “Bỉnh Di tịch biên gia sản của Du rồi đốt hết”. Phạm Du thù Phạm Bỉnh Di. Ông ta cho người về kinh, hối lộ cho các quan và vu cáo là Bỉnh Di giết người vô tội đồng thời kêu oan .
ĐVSKTT diễn tả về chuyện ân oán giữa Phạm Du và Phạm Bỉnh Di như sau:
Kỷ Tỵ, [Trị Bình Long Ứng] năm thứ 5 [1209] : vua sai phụng ngự gọi Du về kinh. Mùa thu, tháng 7, Bỉnh Dư về đến Kinh sư, sắp vào tâu, có người ngăn lại nói rằng: "Lời của Du đã đến tai vua trước rồi, vua còn chưa nguôi giận" . Bỉnh Di nói; "Ta thờ vua hết trung mà bị kẻ gian tặc gièm pha ư? Huống chi là có mệnh vua đòi, ta cón tránh vào đâu?", rồi Bỉnh Di vào. Vua sai bắt, đem giam cùng với con là Phụ (9) ở Thuỷ viện. Sắp đem hành hình thì tướng của Bỉnh Di là bọn Quách Bốc nghe tin đem quân đánh trống hò reo tiến vào, đến ngoài cửa Đại Thành bị người coi cửa chống cự. Bọn Bốc phá cửa tiến vào…”.
Hai cha con Phạm Bỉnh Di bị giết, không thấy ĐVSKTT nói là ai đã làm chuyện này, tuy nhiên ĐVSL nói rõ là Phạm Du cùng với em trai “cầm đồ binh khí của vua giết Bỉnh Di và Phụ”.
Tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc và đồng đảng tấn công vào cung, , xông vào kho của hoàng cung lấy của rồi cướp xác hai cha con Phạm Bỉnh Di mang xuống bến Triều Đông (ĐVSL), bến này ở phía đông của thành Thăng Long. Quách Bốc mang quân trở lại cung Vạn Diên để “đón ”(10) Hoàng tử Thầm và Thái tử Sảm cùng với mẹ của Thái tử là Hoàng hậu họ Đàm (An Toàn Hoàng hậu) (11) và hai người em gái (em cùng mẹ), đem về nhà Đoàn thị ở Hải Ấp (theo ĐVSL). Vua Cao Tông lúc này đã lánh đến miền Qui Hóa giang, đây là vùng sông Hồng Hà khá xa về phía tây bắc của kinh đô Thăng Long ( khúc sông nằm trên vùng biên giới tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc). Vậy là vua cha thì bỏ chạy lên phía tây bắc, các con cùng vợ là hoàng hậu họ Đàm bị bắt về phía đông nam (Hải Ấp thuộc Nam Định).
Năm 1209: “Rồi ở căn nhà ấy (nhà Đoàn thị ở Hải Ấp-NV), bọn Quách Bốc tôn vương tử Thẩm lên làm vua” (ĐVSL). “Bọn Đàm Dĩ Mông (anh của Đàm hoàng hậu-NV), Nguyễn Chính Lại đều chịu nguỵ chức của Thầm” (ĐVSKTT).
Cờ tới tay.
Bọn Quách Bốc mang hai Hoàng tử, hai Công chúa và Hoàng hậu của về Hải Ấp để lập triều đình mới, ông vua mà họ tự phong là Hoàng tử Thầm. Vùng này là nơi họ Trần có nhiều ảnh hưởng, chuyện xung đột giữa Quách Bốc với Trần Lý khó có thể tránh khỏi. Hơn nữa như đã trình bày ở trên Trần Lý là người đang chờ cơ hội và cờ đã tới tay!
Người viết xin thử tìm hiểu việc họ Trần bước vào chính trường như thế nào. Muốn nhập cuộc và chiếm lợi thế thì sự dò xét cũng như móc nối là việc ắt phải có. Tô Trung Từ có lẽ là người làm nhiệm vụ này, ông ta là hậu duệ của Phụ chính đại thần Tô Hiến Thành, nên có thể đã quen biết người của hoàng tộc. ĐVSL viết: “bấy giờ có lẽ gia thần của vương tử Sảm là Lưu Thiện đi theo Nguyên Tổ (là ông Trần Lý)” . Từ câu viết trên ta có thể phỏng đoán là sự móc nối đã thành hình.
Thái tử Sảm (12) có lẽ đã quen biết Tô Trung Từ nên cho Lưu Thiện theo Trần Lý. Lúc này Thái tử vẫn còn đang dưới sự quản thúc của Quách Bốc. Bọn Bốc lập Thầm làm vua, thì ngôi Thái tử không để làm gì, sinh mạng sẽ khó khỏi tránh kiếp nạn. Lưu Thiện được móc nối và ngả theo Trần Lý để tìm cách cứu Thái tử. Chữ “theo” trong câu viết trên của ĐVSL có thể hiểu là nhận làm nội ứng.
ĐVSL lại viết: “Đến khi Phạm Ngu là người ở Diêu Hào nói rằng: Thẩm tuy lớn nhưng là con thứ, Sảm tuy nhỏ nhưng là con chính, chỉ có hai ông mới la liệu được vậy”. “Hai ông” ở đây là Trần Lý và Tô Trung Từ, Phạm Ngu là một vị quan trong triều, trung thành với Thái tử Sảm. Thấy sự dò xét và móc nối đã xong, Phạm Ngu khuyên hai họ Trần và Tô hưng binh để cứu Thái tử Sảm. Tới đây, người viết lạm nghĩ là nếu Phạm Ngu không khuyên thì Trần Lý và Tô Trung Từ cũng đánh Quách Bốc. Hơn nữa nếu Quách Bốc không trú quân ở Hải Ấp thì Trần Lý cũng tìm Bốc mà đánh. Nắm được Thái tử, và hoàng gia thì Trần Lý và Tô Trung Từ muốn thao túng điều gì cũng được.
Trần Lý và Tô Trung Từ khởi binh để đánh Quách Bốc ngay trong địa bàn của họ. ĐVSKTT không nói tới việc này xảy ra như thế nào ngoài câu viết “cùng nổi lên làm giặc”. ĐVSL cũng không kể về diễn biến này ra sao, chỉ có câu viết tiếp theo là: “Nguyên tổ (Trần Lý-NV) bèn cùng với Phạm Ngu đón vương tử Sam về Lỵ Nhơn lập làm vua, tôn xưng là Thắng Vương và giáng vương tử Thầm làm tước vương”. Câu này nói lên kết quả của diễn biến là Quách Bốc đã thua, Trần Lý và Tô Trung Từ đã cứu được thái tử Sảm, không thấy tài liệu nào nói tới việc bắt hay giết Quách Bốc, người viết phỏng đoán là bọn Bốc đã thua và chạy thoát.
ĐVSL viết tiếp theo câu trên: “Ngay sau đó vương tử Sảm lại trở về Hải Ấp và cư ngụ trong một ngôi nhà ở thôn Lưu gia. Ở đấy thái tử lấy người con gái thứ hai của Nguyên Tổ (Trần Lý-NV) ta làm Nguyên phi. Dùng Đàm Dĩ Mông làm Thái úy, Nguyễn Chánh Lại làm Tham tri chính sự, Nguyên Tổ làm Minh tự, Phạm Tu làm Thượng phẩm Phụng ngự, Tô Trung Tự làm Điện tiền Chỉ huy sứ. Số còn lại mọi người đều có chức vị sai biệt nhau”.
Theo như ĐVSKTT thì Trần Thị Dung, con gái của Trần Lý có sắc đẹp hơn người đã được dùng làm mồi để câu Thái tử Sảm. Mỹ nhân kế có thể dùng tức thời để tạo phương tiện cho mục đích (thật là buồn cho thân phận phái nữ thời phong kiến đã bị lợi dụng nhiều lần để đạt mục đích của cha anh và dòng họ trong lịch sử-Lời NV) . Cuộc hôn nhân này đã là một trong những yếu tố chính cho việc thay đổi triều đại. Tuy nhiên, theo nhận xét riêng về phái tính, thì một người phái nam; ra đời được 14 năm 6 tháng chưa phải là một người trưởng thành. Sử gia Ngô Sĩ Liên có lẽ đã quá lời khi viết: “Thái tử [Sảm] đi lần này là vì nước loạn mà tránh nạn, sao lại buông lòng dâm dục ở ngoài mà tự tiện phong tước cho người”.
Việc Thái tử Sảm lấy Trần Thị Dung làm vợ đều là những dàn xếp có mục đích của ông Trần Lý, Tô Trung Từ, cùng với An Toàn hoàng hậu họ Đàm và Đàm Dĩ Mông (anh hoàng hậu). Chuyện Đàm Thái hậu ghét Trần Thị Dung, vua Huệ Tông (thái tử Sảm) yêu thích bà Dung là chuyện 7 năm sau (1216), khi thời cuộc đã biến đổi. Với cuộc hôn nhân lịch sử này, hai bên đều có lợi. Họ Trần và họ Tô có cơ hội tham chính, Hoàng hậu sẽ có binh lực của hai họ Trần, Tô bảo vệ để có thể về lại cung và lên ngôi Thái hậu sau này, với Đàm Dĩ Mông thì chức Thái uý “ngụy” này có thể trở nên chức Thái úy thự thụ.
Thế là họ Trần đã bắt đầu bước vào chính trường, dù đây chỉ là một “triều đình lưu vong”. Trần Lý được phong chức Minh Tự (13), Tô Trung Từ là em vợ được phong chức Điện tiền chỉ huy sứ (coi quân đội của hoàng cung). Những tước vị được phong có lẽ chỉ là những hứa hẹn của Thái tử Sảm. Qua những diễn biến được kể ở trên, người viết trộm nghĩ là hành động của Thái tử được coi như làm phản, vì Thái tử chưa biết rõ về tình trạng sống chết của vua Cao Tông như thế nào mà đã lập triều đình riêng và phong quan tước bừa bãi.
Nhưng không may ông Trần Lý đã bị chết trước khi có cơ hội để thực sự tham chính.
ĐVSKTT có một câu viết không rõ ràng nói về việc ông Trần Lý chết là : “Canh Ngọ, [Trị Bình Long Ứng] năm thứ 6 [1210] Mùa xuân, tháng 3, vua sai Thượng phẩm phụng ngự là Đỗ Quảng đem quân đến nhà Tô Trung Từ đón Hoàng thái tử về Kinh sư, còn người con gái [Trần thị] thì về nhà cha mẹ. [Bấy giờ] Trần Lý đã bị bọn giặc khác giết,…”.
Sau khi ông Trần Lý chết, binh quyền vào tay người con trai thứ hai của ông là Trần Tự Khánh.
(còn tiếp)

(1) “Bệ hạ”: đây là Lý Chiêu Hoàng
(2) Theo ĐVSKTT: Bà Lý Chiêu Hoàng (Chiêu Thánh) sinh tháng 9 năm 1218, Thái Tông Trần Cảnh gả bà (vợ của ông!) cho Lê Phụ Trần năm 1258 lúc bà đã 41 tuổi, thời gian sau , bà có hai người con với ông này là Thượng Vị hầu Tông và Ứng Thụy công chúa Khuê . Bà chết năm 1278, thọ 61 tuổi ta.
(3) Trần Cảnh sinh tháng 6 năm Mậu Dần 1218, ĐVSKTT: “Họ Trần, tên húy là Cảnh, trước tên húy là Bồ, làm Chi hậu chính triều Lý, được Chiêu Hoàng nhường ngôi, ở ngôi 33 năm [1226-1258], nhường ngôi (làm Thượng hoàng) 19 năm, thọ 60 tuổi [1218- 1277]”
(4) Người viết không thấy sử liệu nào nói về thân phụ của ông Trần Thủ Độ. Tuy nhiên ông này có tên là Trần Hoằng Nghi . Trần Tự Khánh (1175-1223) là anh cả, Trần Thừa là em kế (1184-1134), những tài liệu này được ghi trong http://vietnamgiapha.com/XemGiaPha/367/giapha.html
Người viết xin phép www.vietnamgiapha.com về vai của ông Trần Tự Khánh, danh xưng của thân phụ ông Trần Thủ Độ cũng như việc bà họ Tô - vợ ông Trần Lý- là hậu duệ của Phụ chính đại thần Tô Hiến Thành.

(5) ĐVSKTT: “Tên huý là Long Trát con thứ sáu của Anh Tông, mẹ là Hoàng hậu họ Đỗ , sinh ngày 25 tháng 5 năm Quý Tỵ, Chính Long Bảo Ứng thứ 11 [1173]. Năm Thiên Cảm Chí Bảo thứ 2 [1175] sách lập làm Hoàng thái tử. Anh Tông băng, bèn lên ngôi báu, ở ngôi 35 năm [1176- 1210]
(6) ĐVSKTT : “Sử thần Ngô Sỉ Liên nói: Tô Hiến Thành nhân việc ký thác con côi, hết lòng trung thành, khéo xử trí khi biến cố, tuy bị gió lay sóng đập mà vẫn đứng vững như cột đá giữa dòng, khiến trên yêu dưới thuận, không thẹn với phong độ của đại thần đời xưa. Huống chi đến lúc sắp chết còn vì nước tiến cử người hiền, không vì ơn riêng, thái hậu không dùng lời nói của Hiến Thành là việc không may cho nhà Lý vậy.”
(7) ĐVSL (Đại Việt Sử Lược): năm 1208, “đói to người chết đói nằm gối lên nhau”
(8) ĐVSKTT: “Ất Sửu, [Thiên Gia Bảo Hựu] năm thứ 4 [1204],…. Người Tống sang cướp ở biên giới. Dân ta mệt nhọc chạy nạn, gặp cướp dần nổi. Vua thì ham thích tiền của, các quan phần nhiều bán quan buôn ngục”.
(9) Có lẽ Phụ là con của Phạm Bỉnh Di trước khi làm hoạn quan, hoặc có thể Phụ là con nuôi, tương tự như trường hợp Lê Văn Khôi là con nuôi của Tả Quân Lê Văn Duyệt (ông là hoạn quan).
(10) ĐVSL bản dịch viết là “đón”. “Bắt cóc làm con tin” thì có lẽ đúng với sự việc hơn.
(11) ĐVSKTT: “Giáp Dần, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 9 [1194] , (Tống Thiệu Hy năm thứ 5). Mùa thu, tháng 7, hoàng thái tử Sảm sinh. Phong Đàm Nguyên phi làm An Toàn Hoàng hậu”.
(12) Thái tử Lý Sảm (sau là Lý Huệ Tông) sinh tháng 7 năm Giáp Dần (1194). Biến cố xảy ra tháng Giêng năm Kỷ Tỵ (1209), nói chính xác Thì thái tử đã ra đời được 14 năm và 6 tháng.
(13) Tước vị cao thời nhà Lý (dưới tước hầu), cũng được dùng trong thời nhà Trần.


Nhà Trần khởi nghiệp – Kỳ 2


Phần 2: Loạn “Sứ quân”
Lúc này (tháng 7, năm Kỷ Tỵ,1209),  vua Cao Tông vẫn còn lánh ở tại miền Quy Hoá.  Theo ĐVSKTT thì: “Anh em họ Trần họp hương binh để dẹp loạn, rước vua về kinh, khôi phục chính thống. [26b] Trừng trị bọn Quách Bốc làm loạn, xử tội theo mức độ khác nhau”, diễn biến này cũng  được diễn tả tương tự như trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (KĐVSTGCM) là sau khi dẹp xong loạn Quách Bốc, Trần Tự Khánh và Trần Thừa đón nhà vua về cung (1). Tuy nhiên, khác hẳn với ĐVSKTT và KĐVSTGCM, Đại Việt Sử Lược không nói tới việc  ai đã rước vua về cung, lại còn viết là : “Nhà vua (Cao Tông) sai Phạm Du đến Hồng Lộ (2) để huấn luyện quân sĩ sắp đánh người ở Thuận Lưu” (ĐVSL) là bọn Trần Tự Khánh (3).
Cùng một thời điểm nhưng sự việc lại được viết khác và trái ngược hẳn với nhau. Như đã nêu lý do ở phần mở đầu, người viết dùng ĐVSL để làm tài liệu tham khảo chính, vì sử liệu cũng như thời điểm viết sử, bộ sử này đã đưa ra nhiều chi tiết hơn hẳn những bộ sử khác (ĐVSL đã được hoàn tất thời Trần Phế Đế)
Bản đồ lưu vực sông Hồng với địa danh thời Lý
Biết Thái tử lập triều đình riêng và phong tước bừa bãi cho Trần Lý, Tô Trung Tự,…, nên vua Lý Cao Tông muốn đánh dẹp đám “phản thần” này, nhưng Cao Tông lại là một ông“Vua chơi bời vô độ, chính sự hình pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi như ong, đói kém liền năm, ….” (ĐVSKTT), nên triều đình không đủ tài chính để có được một đội binh tương đối tạm, dù chỉ dùng để bảo vệ kinh thành, chứ chưa nói đến chuyện tấn công các đám giặc cướp nổi loạn (4). Vì vậy Phạm Du được vua Cao Tông sai đi để liên lạc với họ Đoàn (Đoàn Thượng, Đoàn Văn Lôi) ở vùng Hồng (phía tây tỉnh Hải Dương ngày nay), nhà vua muốn dùng binh lực của đám này để đánh đám họ Trần cùng Tô Trung Tự và “triều đình” mới lập. Được nhà vua cử đi, nhưng ông này là một viên quan không ra gì, lãnh nhiệm vụ quan trọng mà còn bê tha trễ nải, vì “biết đã đến lúc dân ở vùng Hồng đi đón rước mà Phạm Du còn cùng với Công chúa Thiền Cực tư thông” (ĐVSL), trễ hẹn, người vùng Hồng bỏ về, Phạm Du phải tìm cách đi riêng (không được người vùng Hồng bảo vệ). Từ Thăng Long, Phạm Du dùng thuyền đi về hướng đông theo đường sông (có lẽ là sông Thiên Đức, tức sông Đuống ngày nay). “Đi đến Cổ châu mới dừng lại rồi theo đường bộ đến xã A Cảo thuộc vùng Ma Lãng thì bị người ở Bắc Giang là Nguyễn Nậu và Nguyễn Nải bắt đưa cho Vương tử Sam giết đi” (ĐVSL). Họ Nguyễncát cứ ở Bắc Giang, lúc này chắc hẳn đã liên minh với họ Trần ở Thiên Trường, phò Thái tử Sảm,  nên mới chống lại triều đình và giết Phạm Du.
Phạm Du chết, triều đình không được binh lực của họ Đoàn ở vùng Hồng không tiếp sức. Được viên hoạn quan là Phạm Bỉnh Di cai quản một đội quân tàm tạm (đủ sức để “gà nhà bôi mặt đá nhau” và đánh thắng Phạm Du khi ông này làm loạn, còn để chống ngoại xâm thì NV không dám bàn!!!), nhưng Di với con là Phụ đã bị nhà vua giết chết,  rồi sau đó bộ tướng của Di làm phản, hoàng tộc phải bôn tẩu khỏi kinh thành, một triều đình không còn sức để bảo vệ chính mình, vua Cao Tông thấy mình bất lực.
Năm Kỷ Tỵ, 1209, Trần Tự Khánh thấy hoàng cung gần như không còn binh lực phòng thủ,  nên “mùa thu, tháng 8, bọn đồ đảng ở Thuận Lưu sung sướng về việc Phạm Bỉnh Di chết mới rầm rộ đốc xuất thuyền bè, quân lính tiến đánh kinh sư” (ĐVSL). Quân trên bộ “tiến thẳng vào trong cung cấm đánh cắp các đồ vật quí báu” (ĐVSL) còn thủy quân thì “ngờ là có quan quân đến đánh nên đều chèo thuyền rời qua phía bắc. Gió thổi mạnh, tất cả thuyền bè đều trôi giạt tản mát cả ra. Hai đội quân (trên bộ) nghe tin ghe thuyền đã thất lạc mới bỏ chạy tán loạn cả. Người kinh thành đuổi theo giết chết hơn 300 tên” (ĐVSL). Ra quân lần này, đám Thuận Lưu là bọn Trần Tự Khánh có lẽ muốn làm chuyện lớn, với âm mưu đưa thái tử Sảm lên làm vua (5) (Thái tử đang ở Hải Ấp – phía tây bắc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, ngày nay) nên mang theo cả hàng ngàn quân (NV: đây là quân số phỏng đoán, vì chết 300 quân bộ cùng số quân bộ chạy thoát, cộng thêm với số quân thủy bị thất tán). Tuy nhiên bọn Trần Tự Khánh đã không thành công . Thật là đáng phục những người ở kinh thành lúc này, dù không phải là một tổ chức quân đội có qui củ, thế mà đã dám đứng lên đánh đuổi kẻ làm giặc.
Tô Trung Từ thao túng triều đình nhà Lý.
Tháng Giêng năm Canh Ngọ (1210),“Tô Trung Tự từ lúc kín đáo nhận lãnh cái tước do Vương tử Sảm phong cho thì sợ tội trạng sẽ đến với mình mới bắt ép binh lính đánh Khoái châu (6) . Nhân đó bắt bọn Vương tử Sảm đem về kinh sư.”(ĐVSL). Ông này vì lo lắng cho cái tước “ngụy” của mình, sợ triều đình đem quân hỏi tội, bèn tính chuyện “nhất chín nhì bù” là tấn công Khoái châu và đám quân của họ Trần ở Hải Ấp để bắt Thái tử, sau đó lấy lý do đưa Thái tử và Đàm Hoàng hậu hồi cung để mang quân tới kinh đô, mang được quân về kinh đô khi nơi đây vắng binh lực là có thể “vùng vẫy dọc ngang”. Tô Trung Từ thi hành kế hoạch này, thế là cậu cháu xích mích, họ Tô và họ Trần bất hoà . Tại đế đô, với binh lực trong tay, Tô Trung Từ ra tay thao túng triều đình. Tình thế lúc này tương tự  như cảnh Đổng Trác kéo quân về Lạc Dương lúc đầu thời Tam Quốc bên Trung Hoa. Tuy nhiên có một điểm khác là Đổng Trác được Hà Tiến gọi về, còn Tô Trung Từ  tự kiếm lấy lý do để mang quân về kinh đô, và Từ không đến nỗi tàn hại như Trác, vì Từ không cướp bóc và giết hại thường dân (NV không thấy ĐVSL hay những bộ sử khác viết về chuyện cướp bóc và giết hại thường dân của Tô Trung Từ) , dù ông này đã khá mạnh tay thao túng và giết quan lại triều đình nhà Lý.
Thái tử về lại Thăng Long, “nhà vua sai quan Thượng phẩm Phụng ngự là Đỗ Quảng sang “nhà” Tô Trung Tự để đón Vương Tử Sảm. Các quan viên tạm thời của Vương Tử Sảm đều chạy trốn đi hết cả ” (ĐVSL). Các “quan viên” này có lẽ đã trốn đi trước khi Tô Trung Từ đánh Hải Ấp, vì ông này cũng là một trong số đó, cũng vì sợ nên phải làm liều. Anh của Hoàng hậu là Đàm Dĩ Mông cũng trốn. Tuy nhiên, ông này dùng âm mưu khác để chạy tội là “Dĩ Mông cùng với kẻ thuộc hạ của ông âm mưu bắt những người đã nhận lãnh tước do Vương tử Sảm phong để chuộc lại cái tội ấy” (ĐVSL). Để thực hiện kế hoạch “lập công chuộc tội”, ông ta và đồng đảng truyền hịch chiêu mộ quân binh, bắt những người đã được Thái tử Sảm phong tước. Số người bị bắt là 28 người. Họ Trần ở Thiên Trường  cũng bị  Đàm Dĩ Mông mang người ở vùng Gia (?) và Thanh Hóa tiến đánh (vì Trần Lý đã được phong tước Minh Tự?). Đàm Dĩ Mông không phải là địch thủ của anh em họ Trần (Trần Thừa và Trần Tự Khánh,…) nên bị thua. “Do đó các đạo binh khác nghe tin thất trận đều dẫn binh về” (ĐVSL) . Đàm Dĩ Mông mang những người bị bắt tổng cộng là 28 người nộp cho Đỗ Anh Doãn (7), nhưng lại bị Doãn mắng . Phạm Bỉnh Di thẹn và lui ra, tuy nhiên “Đàm Dĩ Mông vẫn tại chức như cũ” (8)(KĐVSTGCM).
Năm Canh Ngọ (1210) “Mùa đông, tháng 10, vua không khỏe, gọi Đỗ Kính Tu và nhận mệnh ký thác. Ngày 28 Nhâm Ngọ, vua băng ở cung Thánh Thọ”. (ĐVSKTT).
Hoàng thái tử Sảm lên ngôi ở trước linh cữu bấy giờ mới 16 tuổi. Tôn mẹ là Đàm thị là Hoàng thái hậu, cùng nghe chính sự.” (ĐVSKTT). Thái Tử Sảm lên ngôi là Lý Huệ Tông.
Được tin vua Cao Tông băng, không bỏ lỡ cơ hội để mang quân về kinh thành, “quan Minh tự ở Thuận Lưu là Trần Tự Khánh thống xuất thuyền bè và quân lính đóng ở bên Tế Giang (9) để mời người cậu của y là Tô Trung Từ cùng đi viếng tang vua Cao Tông. Tô Trung Từ cũng ngờ Trần Tự Khánh hai lòng. Trần Tự Khánh bèn kéo quân về” (ĐVSL). Không ngờ sao được! Tô Trung Từ đã cướp Thái tử từ tay họ Trần ở Hải Ấp, hiềm khích đã có từ lúc này, nếu Trung Từ nghe lời mời của của Tự Khánh, để cùng nhau đi viếng tang vua Cao Tông, thì tình thế chắc cũng sẽ giống như lúc Lưu Bang đi dự yến Hồng Môn, hay Quan Công phó hội Giang Đông, tính mạng sẽ khó an toàn. Còn nếu dùng binh lực để tấn công Tự Khánh thì chưa chắc đã thành công, vì họ Tô thừa biết binh lực của họ Trần, hơn nữa thiếu lý do chính đáng. Phần Trần Tự Khánh, thấy ông cậu nghi ngờ thì cũng phải thôi, không lẽ để xảy ra cảnh cậu cháu chém giết nhau, hơn nữa đã một lần Tự Khánh mang quân về kinh thành cướp bóc, nhưng đã bị đánh bại bởi người kinh thành. Trần Tự Khánh rút lui và đợi cơ hội khác.
Lúc này, vùng châu thổ sông Hồng đã có bốn lực lượng nổi lên như sau:
-Tô Trung Từ có quân đội ở kinh thành, đang quản thúc vua Huệ Tông cùng triều đình nhà Lý .
-Anh em họ Trần (Trần Tự Khánh và Trần Thừa) ở Thiên Trường.
-Họ Đoàn (Đoàn Thượng và Đoàn Chủ) ở vùng Hồng.
-Nguyễn Nậu và Nguyễn Nải ở Bắc Giang.
Bốn lực lượng đang chờ cơ hội tiêu diệt nhau để tranh bá, rồi sau đó; nếu ai diệt được hết những lực lượng khác sẽ thành bá chủ và biết đâu sẽ có thể thay thế nhà Lý làm vua Đại Việt!
Vừa lên ngôi, vua Cao Tông “sai đón ngưới con gái thứ hai họ Trần, nhưng Trần Tự Khánh không cho” (10) (ĐVSL). Ông Trần Lý đã cho con gái mình làm vợ vua Cao Tông, thế mà Tự Khánh lại không cho nhà vua đón về. Quyền hành nhà vua chả còn gì. Trong thì bị Tô Trung Từ kiềm chế, ngoài thì bị đám loạn quân coi thường, vua Huệ Tông chỉ là một ông vua bù nhìn với một triều đình chờ sụp đổ.
Nhà vua dùng quan Thái phó là Đỗ Kính Tu làm Thái Uý” (ĐVSL). Đỗ Kính Tu  cố tìm cách loại Tô Trung Từ để triều đình khỏi bị ông này thao túng, nhưng chính quan nhà Lý lại phản lẫn nhau. “Tháng chạp, quan Chi hậu Phụng ngự là bọn Đỗ Quảng bắt Kính Tu đưa cho Tô Trung Từ dìm xuống nước cho chết ở bến ại Thông”( ĐVSL). Sau đó,Tô Trung Từ nghe tin là  Quan nội hầu Đỗ Thế Qui, Đỗ Quảng và Phí Liệt âm mưu phát binh để đánh mình, ông này bèn dẫn quân đánh úp những người này trước. Tuy nhiên, khi sắp muốn đánh thì Trung Tự mới biết là quân số của mình ít hơn đám quân của Đỗ Quảng quá nhiều. Trung Từ bèn lập mưu lừa mấy ông này để Từ tìm cách tăng viện binh. Sau khi thêm quân và thấy là có thể chắc thắng, Trung Từ bèn tấn công và  đánh bại bọn Đỗ Quảng. Đỗ Quảng và Phí Liệt  trốn thoát, Đỗ Thế Qui bị bắt, sau đó bị Tô Trung Từ hành hình ở ngoài chợ một cách dã man, dù bị như vậy, “ nhưng thần sắc của Đỗ Thế Qui vẫn tự nhiên cho tới chết” (ĐVSL), thật là phục sự can đảm của ông này, triều đình nhà Lý vẫn còn có được một người!
Thế là những dự tính dùng binh lực để chống lại Tô Trung Từ đều bị dập tắt và ông này càng ngày càng lộng hành hơn nữa. Sau đó, “Nhà vua cho Tô Trung Từ làm Chiêu thảo Đại sứ, Đàm Dĩ Mông làm Thái Úy” (ĐVSL). Với chức quyền và binh lực trong tay, hai ông này tìm cách loại những quan chức của triều đình mà họ không ưa. Cuối thời vua Cao Tông, Đàm Dĩ Mông đã bị Đỗ Anh Doãn mắng vì nhận chức “ngụy” của Thái tử Sảm (nay là vua Huệ Tông), nay với quyền lực trong tay, để trả mối thù cũ,  ông này ép vua hạ chiếu giết Đỗ Anh Doãn  cùng với ba ông quan khác là Doãn Đình, Nguyễn Nguyên, Nguyễn Nhân. Tiếp theo đó, viên hoạn quan “sâu dân mọt nước” này, với chức Thái úy còn ép vua tấn phong cho mình tước vương. “Vua mới lên ngôi, đem việc nước giao cho Thái uý Đàm Dĩ Mông. Dĩ Mông là người không có học thức, không có mưu thuật, lại nhu nhược không quyết đoán, chính sự ngày một đổ nát”. (ĐVSKTT)
Tháng Giêng năm 1211, sau ba tháng lên ngôi, lần thứ nhì, vua Cao Tông “lại sai người đi đón người con gái thứ hai của họ Trần về, nhưng Trần Tự Khánh không cho” (ĐVSL). Ông vua trẻ tuổi này cũng khá chung tình, có lẽ đây là một điểm đáng khen của vua Huệ Tông! Không làm gì được Trần Tự Khánh, nhưng vì nhớ vợ, nhà vua lại phải kiên nhẫn cho người về Thiên Trường đón Trần Thị Dung một lần nữa. Lần này thì Trần Tự Khánh để cho em gái mình về cung. Sau khi chuẩn bị kỹ càng việc về cung của cô em gái, “Trần Tự Khánh sai (11)quan túc trực ở nội điện là Phùng Tá Chu, cùng với viên tỳ tướng của y là Phan Lân, Nguyễn Ngạnh đưa người con gái ấy về kinh sư ” (ĐVSL).
Về đến kinh sư, “Gặp lúc Tô Trung Từ cùng với Đỗ Quảng đánh nhau ở cửa Triều Đông nên bọn Phùng Tá Chu phải đậu thuyền ở bến Đại thông” (ĐVSL). Trong khi đậu tại bến này chờ cho dứt cuộc giao tranh, “Tô Trung Từ cho Phan Lân và Nguyễn Ngạnh mượn binh” (ĐVSL) để đánh Đỗ Quảng. Nhiệm vụ của hai ông này là hộ tống Trần Thị Dung vào cung, nhưng lại kéo nhau đi đánh Đỗ Quảng. Không biết đây là âm mưu của phe nào, Khánh hay Từ. Đương nhiên Tô Trung Từ muốn loại Đỗ Quảng, vì ông này là cái gai trước mắt, Đỗ Quảng còn sống thì Tô Trung Từ chưa thể thao túng toàn bộ triều đình nhà Lý. Trung Từ biết Phan Lân và Nguyễn Ngạnh là người có khả năng, lại mang theo một đoàn quân để hộ tống em gái Trần Tự Khánh về cung, nên muốn  dùng quân của hai ông này cộng thêm với quân của mình để diệt Đỗ Quảng. “Rồi thì quân của Đỗ Quảng thua to. Tháng nhuận bắt được Đỗ Quảng ” (ĐVSL). Diệt xong bọn Đỗ Quảng, Tô Trung Từ làm chủ toàn bộ lực lượng ở kinh thành. “Tháng 3, dùng Chiêu thảo Đại sứ là Quan nội hầu (12) Tô Trung Từ làm Thái úy” (ĐVSL). Sau đó bọn Phùng Tá Chu đưa cô em gái của Trần Tự Khánh vào cung. Giờ đây nhà vua mới được thỏa lòng mong ước (sau ba lần đón rước với hai lần hụt một lần thành). Vua Huệ Tông “lậpngười con gái thứ hai họ Trần làm Nguyên phi...Mùa hạ, tháng 4  an táng vua Cao Tông(13) (ĐVSL).
Với chức Thái uý, Tô Trung Từ nắm toàn bộ binh lực của triều đình (14). Để làm ra vẻ ta đây chính thức là một vị quan uy quyền của triều đình và để thị oai, Tô Trung Từ mang Đỗ Quảng cùng đồng bọn ra cho “nhà vua cùng với Thái hậu ngự ở cửa Cảnh Diên  xét ánBọn Đỗ Quảng bảy người đều bị xử chém” (ĐVSL). Trong lúc Tô Trung Từ đang lo khuynh loát triều đình thì các bộ tướng của ông này lại tìm cách hại lẫn nhau. Nguyễn Tự và Nguyễn Đà La là hai trong những bộ tướng theo Tô Trung Từ kéo quân về kinh thành. Nguyễn  Đà La lại là con rể của Tô Trung Tự. “ Một tướng dưới quyền  là của Nguyễn Tự là Nguyễn Giai báo cho Tô Trung Tự biết là Tự muốn giết Đà La rồi nhân đó làm phản.  Tô Trung Tự giận rồi tước đoạt binh quyền của Nguyễn Tự. Nguyễn Tự sợ chạy sang Quốc Oai” (ĐVSL). Không biết lời tố giác của Nguyễn Gia là thật hay vu oan, tuy nhiên vì việc này mà Nguyễn Tự sau này sẽ trở thành một “sứ quân” có đất đai riêng, và có một lực lượng quân sự khá mạnh để tranh hùng với các “sứ quân” khác.
Năm Tân Tỵ (1211), “Tháng 6, Tô Trung Từ ban đêm sang nhà ở Gia Lâm để cùng với công chúa Thiên Cực tư thông bị chồng của Công chúa làm Quan nội hầu là Vương Thượng giết chết” (ĐVSL)
Thế là sau một năm rưỡi (từ tháng Giêng năm 1210 tới tháng 6, 1211), kẻ khuynh loát triều đình nhà Lý là Tô Trung Từ bị giết chết và chết một cách lãng nhách, “dâm phu” bị chồng của “dâm phụ” (15) đập chết tươi vì ghen tuông ! Có phải Tô Trung Từ bị chết vì chuyện ghen tuông tầm thường của thế nhân mà thời nào, xã hội nào cũng có? Cá  nhân người viết không nghĩ như thế vì nhận thấy có vài điều đáng suy nghĩ trong câu văn này, đó là địa danh Gia Lâm cùng tên của hai nhân vật là Công chúa Thiên Cực và Vương Thượng. Từ sự suy nghĩ này, người viết xin phép đưa ra một giả thuyết, xin lập lại đây chỉ là giả thuyết, để độc giả cảm thấy bớt nhàm chán .
Gia Lâm là tên của một huyện cạnh Thăng Long, nơi Tô Trung Từ bị giết. Còn nhàVương Thưọng thì ở mãi Châu Lạng (Lạng Sơn ngày nay). ĐVSL viết cho sự việc xảy ra năm 1214 : “Nhà vua mới cùng với Thái hậu chạy đi ngụ tại nhà Quan nôi hầu là Vương thượng ở Châu Lạng” . Có thể Vương Thượng được sai đi trấn thủ ở Lạng châu, sau khi Tô Trung Từ đã bị giết, tuy nhiên nếu Vương Thượng và vợ là Thiên Cực Công chúa đã ở đây từ trước thì giả thuyết này sẽ hào hứng hơn.
Tô Trung Từ thao túng triều đình một năm rưỡi, ông này đã gây quá nhiều thù hận với quan lại nhà Lý và dân kinh thành. Càng lúc ông ta càng chuyên quyền. Bất cứ vị quan nào còn trung với nhà Lý đều muốn trừ khử ông ta. Những ai có hành động nào chống đối; đều bị Tô Trung Từ giết thảm khốc: quan Thái Phó Đỗ Kính Tu bị dìm nước cho chết, Quan nội hầu Đỗ Thế Qui bị chặt chân tay và mổ bụng ở giữa chợ Đông, xử trảm Đỗ Quảng và đồng bọn bẩy người. Rồi còn bao nhiêu binh lính và dân kinh thành bị tử vong vì những chinh chiến do ông này mang tới. Hơn nữa, những lực lượng khác như người ở vùng Hồng, Bắc Giang, Nam Sách và ngay cháu là Trần Tự Khánh cũng muốn tiêu diệt ông này. Muốn thì nhiều rất nhiều người muốn, nhưng thi hành thì không phải là việc dễ dàng. Tô Trung Từ cũng thừa biết rằng mình ở trong tình thế cực kỳ nguy hiểm. Vì vậy họ Tô phải cẩn thận bảo vệ chính mình, nên đi đâu cũng có quân lính hộ vệ chung quanh.
Muốn loại Tô Trung Từ thì phải tách ông này xa đám quân hộ vệ. Để thi hành kế hoạch , chỉ có dùng cách dụ để ông này tự ý tách riêng, như thế mới có thể hạ thủ một cách dễ dàng. Muốn cho Trung Từ đi riêng thì phải dụ cho ông ta làm đi làm chuyện riêng tư, và chuyện riêng tư thì không muốn cho ai biết, thí dụ như đi “ăn vụng”. Chả ai đi “ăn vụng” mà mang theo cả đoàn quân? Dụ cho Trung Từ làm chuyện này thì phải có “mồi” ngon. Mồi ngon cho ông này là mỹ nhân. Anh hùng cũng khó thoát khỏi ải mỹ nhân . Phương chi Tô Trung Từ chưa hẳn đã là anh hùng hay hảo hán, ông này có hành động như một loạn tướng thì đúng hơn. Không đủ sức thì dùng “mỹ nhân kế”, thiên “Bại chiến kế” trong Binh Pháp Tôn Tử vậy.
Thiên Cực Công chúa, vợ của Vương Thượng chắc phải là một người đàn bà rất đẹp, vậy mới có thể dụ được Phạm Du, rồi sau đó lại lôi cuốn Tô Trung Từ tư thông. Đám quan văn nhà Lý chắc là đã  đọc Bắc sử thời Tam Quốc, nên biết được việc Vương Doãn dùng mỹ nhân kế để ly gián Lã Bố và Đổng Trác.  Trác đã bị Lã Bố đâm chết (16). Họ muốn thi hành  mưu kế tương tự nên nhờ Vương Thường và vợ là Thiên Cực Công từ Lạng Châu về giúp để thi hành mỹ nhân kế. Màn kịch phải được đóng thật khéo, vì chỉ một chút sơ sót thì ít ai sống sót. Chuyện Công Chúa Thiên Cực “ăn vụng” (đã đi vào sử sách) thì Vương Thường chắc đã biết, nhưng có lẽ chả dám làm gì với bà vợ Công chúa này. Vậy thêm một lần nữa cũng chả sao! Hơn nữa lần này là “ăn vụng có chính nghĩa”.  Thi hành mưu kế, Vương Thượng dàn phục binh, trong khi Tô Trung Từ chỉ mang theo vài người tâm phúc. Trung Từ đã lọt bẫy và đã bị Vương Thượng cùng  phục binh giết chết. Có một trùng hợp khá lý thú ở đây là Vương Doãn, người dùng mỹ nhân kế giết Đổng Trác cũng cùng họ với Vương Thường và cục diện cũng tương tự như nhau.
Tô Trung Tự đã chết, nhưng triều đình suy vong với đám quan lại yếu hèn này lại sẽ có một “Tô Trung Tự” khác lên thay, cũng như nhà  Đông Hán, hết nạn Đổng Trác lại đến họa Tào Tháo vậy.
(còn tiếp)
Trần Việt Bắc

1. KĐ VSTGCM:“ Anh em họ Trần mới chiêu tập quân hương dũng dẹp yên đảng loạn, rước nhà vua ở Quy Hóa về cung
2. Theo như ghi chú trong ĐVSKTT thì Hồng lộ  thuộc phía tây tỉnh Hưng Yên ngày nay (xin coi bản đồ)
3. ĐVSL: “Ngày Kỷ Dậu quan Minh tự ở Thuận Lưu là Trần Tự Khánh….”. Người viết đã cố gắng tra cứu về điạ danh “Thuận Lưu”,  nhưng không tìm ra vị trí rõ ràng (ĐVSKTT, KĐVSTGCM, Đại Nam Nhất Thống Chí-Quốc Sử Quán triều Nguyễn, v. v…). Tuy nhiên theo như  ĐVSKTT thì họ Trần tới đời Trần Lý vẫn ở  “Hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường”. Rồi sau này Tự Khánh được phong tước là Thuận Lưu bá, thì có thể Thuận Lưu là tên của một vùng đất cạnh Thiên Trường . Kính xin các độc giả cũng như các bậc cao minh chỉ bảo.
4. Quách Bốc, bộ tướng của Phạm Bỉnh Di, chỉ với một đám loạn giặc đã làm cho cả triều đình tan hoang. May mà lúc này nhà Nam Tống (Tống Ninh Tông) đang bị điêu đứng với nhà Kim , nếu không thì Đại Việt khó lòng tránh cái hoạ mất nước bởi Bắc phương !
5.  NV: Trần Tự Khánh lúc này chắc chưa dám có ý định tiếm ngôi của nhà Lý, tuy nhiên âm mưu của ông ta là muốn đưa Thái tử  Sảm lên ngôi. Với binh lực trong tay,  thêm em gái là Trần Thị Dung làm Hoàng hậu, triều đình nhà Lý sẽ bị Khánh thao túng dễ dàng.
6. Khoái châu thuộc huyện Tiên Lữ tỉnh Hải Dương ngày nay. Hải Ấp  nằm trong Khoái châu thời Lý.
7. KĐVSTGCM viết là Đỗ Anh Tri ệt. “Đỗ Anh Triệt kể tội hắn rằng: "Ngươi làm đại thần, đem lòng vô quân532 , nhận quan tước của giặc, nay lại ngang hàng với ta! Ta đây dẫu bất tài, nhưng còn mặt mũi nào đối nhìn nhau nữa!". Dĩ Mông thẹn và sợ, phải lui ra.” (KĐVSTGCM). Ông này mà biết thẹn, kể cũng lạ!
8. KĐVSTGCM: “ Trước kia, Phí Lang và Bảo Lương đến cửa cung khuyết, dâng thư nói về việc Đàm Dĩ Mông mọt nước, hại dân. Dĩ Mông nổi giận, đem bọn ấy phạt đánh bằng roi. Vì thế bọn Phí Lang đem lòng căm phẫn, bèn nổi loạn”. Viên hoạn quan này làm nhiều điều sai trái, nhưng nhờ có em gái là Hoàng hậu và tài nịnh nọt, nên đã không bị tội mà vẫn thăng quan tiến chức, sau này còn được thăng đến tước vương.  Thật là đáng sợ  những quân tham nhũng và sâu dân mọt nước này.
9. Tế giang, nay thuộc huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên (huyện Văn Giang  có lẽ là hai huyện Mỹ Văn và Châu Giang hợp lại). Đây là khúc sông Hồng  phía nam kế cận với Thăng Long .
10. Thì ra vua Huệ Tông bị sử thần Ngô Sĩ Liên chê trách cũng không đến nỗi sai. Cha chết chỉ mới liệm, chưa chôn, triều đình thì nát bét mà đã nghĩ tới chuyện đi đón vợ rồi !
11.  Theo như  ĐVSKTT thì Phùng Tá Chu là quan nhà Lý: “Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:…Phùng Tá Chu là bề tôi cũ triều Lý, …”có lẽ ông này đã được vua Cao Tông cử đi để đón vợ mình. Tuy nhiên ĐVSKTT lại có đoạn viết như sau: “Tháng 2,, vua lại sai Phụng ngự là Phạm Bố đi đón Trần thị. Tự Khánh bèn sai bọn Phùng Tá Chu đưa Trần thị đi”. Nếu Phùng Tá Chu là quan nhà Lý, thì phải dùng chữ  khác, thí dụ như chữ  “nhờ”mới hợp tình hợp cảnh. Phùng Tá Chu  về sau làm quan rất lớn trong triều Trần và được phong đến tước Vương. Kính xin độc giả và các bậc cao minh chỉ bảo.
12.  Không biết lúc nào ông Tô Trung Tự đước phong làm Quan nội hầu. Chức quan này vốn của Đỗ Thế Qui , ông này đã bị Tô Trung Từ giết một cách thảm khốc.
13.  Ông Ngô Sĩ Liên mắng chả sai, lo chuyện vợ trước đã , chôn bố sau cũng chả muộn, chán thật!
14.  Binh lực  triều đình lúc này  thật ra chả còn gì, chức Thái úy có lẽ là do Tô Trung Tự ép nhà vua phong cho ông ta. Bối cảnh thì giống như  thời Tam Quốc bên Trung Hoa lúc Đổng Trác kéo về Lạc Dương, nhưng cách hành xử của ông này có lẽ giống như Tào Thào, uy hiếp Hiến đế ở Hứa đô. 
15. Công chúa Thiên Cực đã một lần “tư thông” với Phạm Du và ông này bị giết chết một cách gián tiếp bởi bà này. Lần này bà này lại “tư thông” với Tô Trung Từ  và ông này coi như  bị trực tiếp giết chết. Không biết rõ vai vế bà Công chúa này trong triều đại Lý như thế nào, có lẽ bà này là  em của vua Cao Tông và là con của Anh Tông (Vua Anh Tông có mẹ là Lê Thái hậu, bà này “nổi tiếng” chung với Đỗ Anh Vũ, bà cháu giống nhau chăng?)
16. Lúc này bộ tiểu thuyết “Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa” của La Quán Trung (1330-1400) chưa ra đời.


Nhà Trần khởi nghiệp

(Tiếp theo kỳ trước)
Trần Việt Bắc
“Sứ quân” Nguyễn Tự
Như đã được trình bày trong phần trước, Nguyễn Tự vốn là một bộ tướng của Tô Trung Từ, vì có hiềm khích giữa ông này với con rể của Tô Trung Từ là Nguyễn Đà La, Nguyễn Tự muốn giết La rồi làm phản, Trung Từ được Nguyễn Giai là tướng dưới quyền của Nguyễn Tự báo cho biết sự việc, Nguyễn Tự sợ bị hại nên bỏ trốn sang Quốc Oai (1), rồi gặp cơ hội và trở thành “đầu sỏ” ở vùng này.
Nguyễn Tự thành một “sứ quân” cũng chỉ được một thời gian ngắn là 8 tháng (Từ tháng 6 năm năm Tân Mùi (2)1211, ,  đến tháng 2 năm Nhâm Thân,1212), ĐVSL viết: “Lúc bấy giờ Nguyễn Tự nghe Tô Trung Từ đã chết bèn trở về kinh sư, ban đêm dẫn đồng đảng ra đánh cắp hoá vật ở trong phủ của nhà vua. Vua giận hạ chiếu bắt Nguyện Tự rất gắt gao. Nguyễn Tự chạy trốn sang vùng Sơn Lão thuộc Khô Sách. Trong vài tháng thì áo cơm đều cùng quẫn thiếu thốn cả mới toan về với Trần Tự Khánh. Lúc đi vào trong ấp Than, các bậc phụ lão ngăn cản giữa đường, xin lưu lại mà thưa rằng “Đất này khốn khổ với người Sơn Lão đã lâu rồi. Xin Minh Công, nếu có thể lưu lại trong ít lâu thì một giải ấp này mà sống được không phải là ít. Nguyễn Tự mới quyết định ở lại. Rồi thì mở cuộc hội họp lớn, người trong ấp giết trâu, uống máu mà thề ước với nhau. Nguyễn Tự đem những mối lợi hại ra phủ dụ, dân chúng trong ấp đều nghe theo rồi “vâng, dạ” hết cả. Nguyễn Tự thấy được lòng dân chúng, mói bèn dẫn binh đi đánh phá Sơn Lão, chém đầu giặc rồi trở về. Lại sai làm hơn vài chục hình người bằng cỏ, mỗi hình người có cầm đuốc, ban đêm đặt trong làng Sơn Lão. Sai người theo giữ mà răn bảo rằng : Hễ các anh thấy ở nhà Sơn Lão cháy rực lên thì phải cấp tốc đốt đuốc rồi kêu la huyên náo lên nhé!”. Nửa đêm sai Nguyễn Cuộc đốt nhà bọn Sơn Lão. Người giữ (những hình nộm-ND) thấy lửa phát cháy cũng đốt đuốc mà la réo lên. Bọn Sơn Lão kinh sợ vùng dậy một cách gấp gáp và sắp muốn cự chiến, nhưng lại nghi ngờ là trước sau đều có binh lính đông mà không ra đánh. Rồi cả bọn đều hướng về cái làng ở phía trước mà bắn, nhưng lại sợ Nguyễn Tự dẫn binh đến nên xin đầu hàng. Từ đó một giải quận huyện đều về tay Nguyễn Tự”.
Theo như những diễn tả khá chi tiết trong ĐVSL, Nguyễn Tự cũng là một nhân vật có bản lãnh, đã dám chống lại chủ tướng (Trung Từ, người đang khuynh loát triều đình ) cùng người con rể của ông này . Từ lúc “áo cơm đều cùng quẫn thiếu thốn” (ĐVSL), ông ta đã tạo được cơ hội riêng và thế đứng riêng cho mình (dẹp giặc Sơn Lão), liên minh với Trần Tự Khánh để chia vùng “tự trị”. Lúc này Trần Tự Khánh đã là một “sứ quân” hùng mạnh.  ĐVSL viết: “Quan Minh Tự ở Thuận Lưu là Trần Tự Khánh cùng với Nguyễn Tự họp nhau ở bến Triều Đông thề là đến chết vẫn kết giao với nhau mà hết lòng giúp nước, cùng chung dẹp yên cho dân cái họa nhiễu loạn. Rồi chia theo hai bờ con sông lớn, mỗi người tự quản lãnh một bên. Từ Thượng Khối đến Na Ngạn (3), con đường ven theo Bắc Giang và làng ấp ở Lục Lộ thì thuộc về Trần Tự Khánh, Từ Kinh Ngạn đến Ô Diên thì thuộc về Nguyễn Tự”.
Vùng đất mà  Nguyễn Tự chiếm đóng ở phía tây của kinh thành Thăng Long, có lẽ gồm những huyện Đan Phượng, Hoài Đức, Thanh Oai, Thạch Thất  thuộc phía bắc tỉnh Hà Tây ngày nay. Tuy nhiên số phần của ông này ngắn ngủi: “Tháng 2, Nguyễn Tự đánh người Cát Lợi là Ngô Thưởng Vu và Võ Cao, bị tên bắn trúng bèn trở về ngõ Tây Dương (4). Hơn một tuần thì vì lầm lỡ ăn nằm cùng với đàn bà nên khí độc lại phát lên mà chết” (NV: ?!). Sau khi Nguyễn Tự chết, “Nhà vua sai người đến vỗ về dân chúng ở đấy. Nhưng người vua sai ấy bị tên phó tướng ở đấy là Nguyễn Cuộc giết. Nhà vua giận lắm, mới tự làm tướng dẫn quân đi đánh Nguyễn Cuộc ở ngoài thành Tây Dương. Lúc tiến đến ngõ Phổ Hỷ, quan quân nhà vua thua to. Cây bảo kiếm nhà vua dùng cũng mất. Vua phải ra roi giục ngựa mà chạy về đến ngõ Diêu Tắc mới thoát được” (ĐVSL). Lúc này thì triều đình nhà Lý đã xuống dốc đến độ thê thảm. Sứ giả được nhà vua cử đi để vỗ về dân chúng thì bị giết, rồi chỉ vì một tên phó tướng của một đám loạn quân dám giết sứ giả, nhà vua vì nóng giận mà phải thân chinh để dẹp giặc đến độ gần bị mất mạng, nhà Lý đã hết người! Thế là vùng đất này lọt vào tay Nguyễn Cuộc. Người viết không thấy sử liệu nào nói về viên tướng này, có lẽ vì sự kết giao của Nguyễn Tự và Trần Tự Khánh nên vùng này chưa bị Tự Khánh “để ý” tới chăng? Lúc này Trần Tự Khánh đã chiếm cứ quá nửa vùng châu thổ sông Hồng. Tuy nhiên hai năm sau, năm 1213 , tức là năm Kiến Dậu (năm Kiến Gia thứ 3),  “Trần Tự Khánh đánh châu Quốc Oai, châu này phải hàng” (ĐVSL). Vậy là vùng đất thuộc Nguyễn Cuộc lại bị đặt dưới sự quản trị của Trần Tự Khánh.
Sứ quân” Trần Tự Khánh.
Trong các “sứ quân” cuối thời Lý thì Trần Tự Khánh có lợi thế và hùng mạnh hơn cả. Sau khi Trần Lý chết, toàn bộ binh lực của ông này trao cho người con  thứ hai là  Trần Tự Khánh, em của Trần Thừa, anh của Trần Thị Dung ( là Nguyên phi của vua Lý Huệ Tông).
Trần Tự Khánh là người có nhiều tham vọng. Ông này đã có lần kéo quân về kinh thành, cướp bóc tài sản của hoàng cung, nhưng lần này đã bị dân chúng kinh thành đánh đuổi. Lần thứ hai lại kéo quân về kinh sư với lý do là viếng tang vua Cao Tông để mưu đồ riêng tư, tuy nhiên bị cậu ruột là Tô Trung Từ nghi ngờ, Trần Tự Khánh bèn kéo binh về lại Thuận Lưu và im lặng đợi thời cơ.Tô Trung Từ chết, cục diện tại kinh thành bắt đầu thay đổi.
Người con rể của Tô Trung Từ là Nguyễn Ma La (cũng gọi là Nguyễn Đà La), có lẽ cũng muốn ngồi vào vị trí của ông bố vợ, nhưng thấy mình khó mà làm chủ được toàn bộ binh lực của họ Tô (vốn đã có sự chia rẽ giữa các bộ tướng của Tô Trung Từ), hơn nữa ông này cũng thấy là họ Đoàn ở vùng Hồng đâu có bỏ qua cơ hội để mang quân về kinh thành. Nếu Đoàn Thượng dẫn quân về kinh thành thì Nguyễn Ma La sẽ bị nguy khốn. Ông này bèn: “sang nói với Thái Tổ (5) ta (Trần Thừa) xin tiến binh dẹp yên ấp Khoái. Nguyễn Ma La cùng với vợ của y là Tô thị lên thuyền sang đạo Thuận Lưu để gặp tướng của Tô Trung Từ là Nguyễn Trinh thì bị Nguyễn Trinh giết rồi cướp lấy Tô thị đem về. Tô Thị sai người tố cáo với Thái Tổ. Thái Tổ giận Trinh phi nghĩa bèn âm mưu giết Trinh….Thái Tổ đóng ở Hải Ấp sai người đi triệu Nguyễn Trinh, Nguyễn Trinh không đến. Thái Tổ bèn sai Tô thị dụ Trinh để giết đi” (ĐVSL). Trong khi Trần Thừa bận đối phó với Nguyễn Trinh, Trần Tự Khánh không để lỡ “dịp may” và lập tức kéo quân về kinh sư (?). Mặc dù ĐVSL đã không nói rõ ràng, nhưng đã viết: “Trần Tự Khánh an táng Tô Trung Từ ở làng Hoạch… . Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi nói vu Trần Tự Khánh với vua rằng: “ Trần Tự Khánh đem binh về kinh sư là muốn mưu đồ việc phế lập”. Vậy là “sứ quân” nào cũng muốn mang quân về kinh sư, tìm cách khống chế và lợi dụng triều đình để có được chữ “chính nghĩa”. Trần Tự Khánh thì lấy lý do là  lo an táng cậu của mình. Họ Đoàn ở vùng Hồng vì chưa kịp mang quân về, bèn dùng kế “vu oan giá họa (6)”  để tìm cơ hội. Mà quả thật như vậy : “ Nhà vua giận. Mùa thu, tháng 7, vua hạ chiếu cho các đạo binh đánh Trần Tự Khánh, và giáng Nguyên phi Trần thị xuống làm Ngự nữ. Người vùng Hồng là Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi đem binh về kinh sư. Nhà vua hạ chiếu tấn phong tước hầu cho Đoàn Thượng ”. (ĐVSL).
Người viết không biết là Trần Tự Khánh có kéo binh được tới kinh đô hay không? Hoặc nếu tới được kinh đô thì ông này đóng quân tại đây được bao lâu? Hay là trên đường kéo quân tới kinh đô đã bị ngăn chận, vì nhà vua hạ  chiếu cho các đạo binh chận đánh .  Tuy nhiên Trần Tự Khánh cũng đã lấy được xác Tô Trung Tự về để chôn cất (7).
Để mở rộng ảnh hưởng, “Trần Tự Khánh đem binh đánh người ở vùng Ma La là Đinh Cảm, nhưng thua rồi rút quân về” (ĐVSL). Dù bị thua nhưng không từ bỏ ý định, hai tháng sau: “Mùa đông, tháng 10, Trần Tự Khánh lại đánh lấy ấp ấy. Đầu tiên đánh núi Đội (8), giết và bắt được rất nhiều người. Đinh Cảm phải chạy sang Sơn Lão” (ĐVSL). Người vùng Hồng đánh Nam Sách. “Dân Nam Sách  sai người đi cầu cứu Trần Tự Khánh. Trần Tự Khánh sai tướng là Đinh Khôi đánh vùng Hồng. Quân vùng Hồng thua chạy. Trần Tự Khánh lại đi kinh lược Lạng châu đến núi Tam Trĩ. Lúc bấy giờ hết cả đất đai ở đấy Trần Tự Khánh lấy được hết cả ” (ĐVSL). Trần Tự Khánh liên minh với “sứ quân” Nguyễn Tự. “Hẹn nhau đến tháng 3 (năm sau , 1212) họp binh đánh người vùng Hồng”( ĐVSL).
Tháng chạp, Trần Tự Khánh rầm rộ kéo binh đến đóng ở Tế Giang. Thái hậu nghe quân đến, ngờ Trần Tự Khánh có ý mưu việc phế lập” (ĐVSL). Tuy nhiên ông này cũng đã được nhà vua phong là Chương Thành hầu, có lẽ vì nhà vua bị Tự Khánh ép buộc, vì vua Huệ Tông đã phong tước hầu cho địch thủ của Tự Khánh là Đoàn Thượng, thế nên ông này muốn có danh chính ngôn thuận để cùng với Nguyễn Tự đánh người ở vùng Hồng chăng? 
Trần Tự Khánh vùng vẫy dọc ngang tại châu thổ sông Hồng trong suốt 14 năm, từ lúc mới nổi lên làm giặc, đánh phá cướp bóc kinh thành cho tới lúc làm tới chức Phụ quốc Thái Úy thì qua đời (1223) (9),  và được “truy phong làm Kiến Quốc Đại Vương” (ĐVSKTT).
Nói về Trần Tự Khánh, sử gia Ngô Sĩ Liên viết về ông này như sau :
ĐVSKTT, tập 1, trang 338: “Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Năm đầu niên hiệu Kiến Gia, giặc cướp đua nhau nổi dậy, Huệ Tông nhu nhược không đánh dẹp được. Trần Tự Khánh vì cớ Huệ hậu bị thái hậu làm khổ mà đem quân phạm cửa khuyết xin đón xa giá. Đương lúc bấy giờ, lòng người không thể không ngờ vực, cho nên Huệ [31b] Tông có lệnh bắt Tự Khánh mà không bắt được. Tự Khánh muốn làm cho kỳ được mới nhiều lần làm kinh động đến vua, xa giá phải dời chổ mấy lần, tội rõ ràng rồi. Nhưng mà Huệ Tông và Huệ hậu rốt cuộc phải nhờ Tự Khánh mới được yên, thì tội ấy không kể đến. Thế là việc tuy là trái nhưng tình thì thuận, sử chép không nêu lên nhưng thực cũng có nêu đấy. Nếu không thế thì chỉ là kẻ đầu sỏ giặc cướp mà thôi.”
Ông Ngô Sĩ Liên cho là Trần Tự Khánh đã có công về việc giúp vua Huệ Tông nhà Lý, nên đã xoá được cái tội làm kinh động đến nhà vua nhiều lần. Đấy là quan niệm của một Nho gia, nhưng người viết thì nghĩ hơi khác. Với thiển ý cá nhân, ông này đã từng là kẻ làm giặc. Để đạt mộng bá vương, ông ta đã gây nên biết bao chinh chiến điêu linh cho đất nước, sinh mạng những người dân vô tội bị ảnh hưởng nặng nề. Những hành động của Trần Tự Khánh đối dân chúng cũng như tài sản quốc gia:
Lần thứ nhất, năm 1209, Trần Tự Khánh đã kéo quân về kinh thành đốt phá và cướp bóc (đã trình bày ở phần trên).
Lần thứ hai, tháng 9, năm 1214, “Trần Tự Khánh thả quân sĩ đi cướp lấy các tài vật trong phủ của nhà vua. Rồi lại đốt phá gần hết cung thất và nhà dân ở trong kinh thành” (ĐVSL).
Lần thứ 3, tháng tư năm 1215, “Ngày nọ Trần Tự Khánh phát binh đi cướp vàng bạc và tài vật ở trong phủ đường của các quan. Nhân đó mới đón Nguyễn (NV: Lý) Vương đi đến hành cung Lị Nhân. Rồi sai Lại Linh đốt cung thất ở kinh đô, gồm có 19 sở” (ĐVSL)
Lần thứ 4, Năm 1215, “Tháng 3, Trần Tự Khánh đánh làng Khoái và san bằng làng này” (ĐVSL).
Lần thứ 5, năm  1217, “Thái úy Trần Tự Khánh dẫn binh đánh Chân Na thuộc Phong Châu. Xứ ấy đều bị đánh tan hoang cả” (ĐVSL).
Chỉ có một lần người dân không bị càn quét được nhắc tới là: “Thái Uý lại dẫn quân đánh Hiển Tín Vương Nguyễn Bát (10) và hương ấp ấy được bình yên”.
Những hành động của Trần Tự Khánh nêu trên bị coi như là những hành động của một tướng cướp. Tháng 5 năm 1216 (Bính Tý), “Ngày Giáp Thìn, nhà vua cùng với phu nhân là Trần thị, ban đêm sang trại quân Thuận Lưu để theo về với Trần Khánh….. Trần Tự Khánh thấy nhà vua thì mừng rỡ lắm. Các tướng sĩ đều đánh trống nhảy múa hoan hô nhà vua. Từ đó nhà vua cùng với Trần  Tự Khánh có ý quyết đánh Vương tước ở Bắc Giang là Nguyễn Nộn, Hiển Tín Vương  là Nguyễn (Lý) Bát cùng người ở vùng Hống là Đoàn văn Lôi, và người Qui Hoá lá Hà Cao v.v…”(ĐVSL). Lúc này, Trần Tự Khánh có nhà vua bên cạnh nên có vẻ “đàng hoàng” hơn, bởi thế; người viết tự hỏi: vì Trần Tự Khánh cảm thấy có được “chính nghĩa” , nên ông này đành bớt những hành động giặc cướp của mình, hay là Trần Tự Khánh thấy mình sắp làm vua đến nơi (?), nên phải có những hành động xứng đáng của một bậc đế vương trong tương lai!  Xin để độc giả nhận xét.
Trần Tự Khánh có mưu đồ vương bá hay không? ĐVSL viết: “ Năm Mậu Dần (1218)….Ngày đó Thái Úy (Trần Tự Khánh-ND) dẫn binh đến trạm Nỗ (Nõ) ngồi nghỉ. Thái úy giỡn chơi, chỉ cái cành nhỏ trên cây mà bảo kẻ tả hữu rằng: “Như ta làm vua, bọn các ông xem ta bắn cái cành cây nhỏ kia một phát thì trúng”. Thấy vậy quân tướng đều vừa sợ vừa  phục. Nhưng một lát sau cái trạm ấy sụp đổ, đè lên người Thái úy. Quân sĩ sợ lắm, vội lo tìm bới mãi mới thấy Thái úy. Vậy mà Thái Úy vẫn không hề gì”.
Dù ĐVSL viết là “Thái úy giỡn chơi”, nhưng ý của ông này cũng đã khá rõ rệt. Nếu triều Lý còn đang thịnh, một viên tướng cầm quân mà  nói “giỡn chơi” thế này thì cái hoạ diệt tộc không xa, may cho Trần Tự Khánh, nhà Lý đã suy vong cực độ; nên ông này mới không biết sợ và dám nói như trên. Tuy nhiên Trần Tự Khánh chắc là cũng bị một phen sợ bở vía, vì vừa thốt ra câu nói “giỡn chơi” thì Thái úy bị cái nhà trạm sụp đè gần chết ! Có lẽ vì cái điềm này mà Trần Tự Khánh sợ chăng! Năm năm sau binh lực của Trần Tự Khánh ngày càng mạnh, quyền lực càng cao, chức vụ đã lên đến tuyệt đỉnh -chức Phụ quốc Thái úy- nhưng cho tới khi chết (1223), người viết chưa tìm thấy sử liệu nào nói là Trần Tự Khánh đã có ý định tiếm ngôi nhà Lý.
Theo thiển ý của người viết thì Trần Tự Khánh cũng có những điểm hay, như sự tổ chức quân đội, đặc biệt là thủy quân. Tổ tiên của ông này đã mấy đời làm nghề chài lưới và đã trở nên giầu có vì nghề này. Một đội ngư thuyền để xử dụng cho việc đánh cá là điều ắt phải có. Nhiều kinh nghiệm về thuyền bè là chuyện tất nhiên. Khi đất nước nhiễu loạn, để tự bảo vệ mình, đoàn ngư thuyền này được cải tiến thành một đội thủy quân với những thủy binh điêu luyện là chuyện không đến nỗi khó khăn. Trần Tự Khánh đã làm điều này, và đã chiếm ưu thế trong những cuộc chiến thời loạn lạc. Căn cứ của họ Trần ở huyện Mỹ Lộc phủ Thiên Trường, nằm ngay trên bờ nam sông Hồng, nên việc tiến lui đều nhanh chóng và hiệu quả. Trần Tự Khánh đã nhiều lần đưa thủy quân về uy hiếp kinh thành. Từ những ưu thế về thủy quân, nhà Trần đã dựng được một đội thủy quân kiêu hùng vào bậc nhất vùng Đông Nam Á,  để sau này đã ba lần đánh bại được đội quân Nguyên Mông hùng mạnh, thủy quân Đại Việt đã góp công rất lớn, đặc biệt là trận Vân Đồn và trận sông Bạch Đằng . Việc làm này của Trần Tự Khánh đối với quốc gia; dù gián tiếp cũng nên được nhắc đến.
Một điểm nữa là sau khi vua Huệ Tông về với Trần Tự Khánh, thì ông này đã liên tục ra công giúp nhà Lý đánh dẹp các “sứ quân” khác, để cho đất nước bớt cảnh chia năm xẻ bẩy. Những năm cuối đời của Trần Tự Khánh cho tới đầu đời Trần, đất nước đã bớt cảnh ly loạn ly. Chỉ còn lại hai “sứ quân” là  Nguyễn Nộn hùng cứ ở Bắc Giang và Đoàn Thượng ở vùng Hồng là chưa dẹp xong.
Những việc Trần Tự Khánh đã làm, xin để cho lịch sử phán xét, người viết chỉ mạo muội trình bày cũng như sắp xếp lại những dòng sử liệu trong thời điểm này, đồng thời cũng xin góp thêm vài thiển ý cá nhân để mong rằng sự việc sẽ sáng tỏ thêm được phần nào.
“Sứ quân” Đoàn Thượng
Đoàn Thượng được kể là một sứ quân có nhiều bản lãnh ở vùng Hồng. Ông này và Đoàn Văn Lôi là những địch thủ đáng gờm của anh em họ Trần cũng như Nguyễn Nộn.
Vùng Hồng theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí (ĐNNTC) của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn (QSQTN), tập 3, nói về tỉnh Hải Dương, trang 376 và trang 378, phủ Bình Giang và Ninh Giang : “Xưa gọi là Hồng châu cuối đời Trần chia làm châu Thượng Hồng và châu Hạ Hồng…”. Vậy vùng Hồng gồm các huyện  Cẩm Giàng, Bình Giang, Thanh Miện, Gia Lộc, Ninh Giang và Tứ Kỳ ở phía nam tỉnh Hải Dương ngày nay.
Nói về Đoàn Thượng, ĐVSKTT viết: “[28b] Nhâm Thân, [Kiến Gia] năm thứ 2 [1212] , (Tống Gia Định năm thứ 5). Mùa xuân, tháng 2, sai người cùng một vú nuôi (NV:?) là Đoàn Thượng chiêu mộ dân châu Hồng đi bắt giặc cướp. Bấy giờ thế nước suy yếu, triều đình không có chính sách hay, đói kém luôn luôn, nhân dân cùng khốn, [Đoàn] Thượng thừa thế tự tiện làm oai làm phúc, không ai dám nói gì. Sau tội trạng tỏ rõ, bị các quan hặc, phải giam vào ngục để hỏi tội. Thượng mới rút gươm, cởi trần chạy về châu Hồng, nhóm họp bè đảng, đắp thành xưng vương, cướp bóc lương dân, triều đình không thể ngăn được”.
Tương tự như ĐVSKTT, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (KDVSTGCM) của QSQTN với: “Lời chua: Đoàn Thượng người làng Thung Độ, huyện Gia Lộc”,  tỉnh Hải Dương (vùng Hồng). Năm 1212, “Đoàn Thượng chiếm cứ huyện Đường Hào (11) thuộc Hồng Châu, đắp lũy ở xã Yên Nhân, biên tên những quân dân ở các làng ấp bên cạnh sung vào việc phòng thủ”. (KĐVSTGCM).
Có sự khác biệt giữa các sử liệu về thời gian Đoàn Thượng nổi lên. ĐVSL viết: “Năm Tân Tỵ (năm 1211-ND) là năm Kiến Gia thứ nhất: ….Tháng 6, …Người trong vùng Hồng đánh ải Quảng Điểm…. Mùa thu, Tháng 7…. Người ở vùng Hồng là Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi đem binh về kinh sư”. Vậy năm 1212, Đoàn Thượng đã là thủ lãnh vùng Hồng từ lâu. ĐVSL ghi lại nhiều chi tiết về những sự việc trong thời gian này, nên người viết xin dùng ĐVSL như là tài liệu chính cho bài viết.
ĐVSL viết: “Năm Đinh Mão (năm 1207-ND) là năm Trị Bình Long Ứng thứ 3:…Mùa thu tháng 3 Đoàn Thượng và Đoàn Chủ làm phản. Nhà vua sai đem đại binh đi đánh. Đàm Dĩ Mông xuất phát đạo Đại Thông,. Bảo Trinh hầu xuất phát đạo Nam Sách. Quan Thượng phẩm Phụng Ngự là Phạm Bỉnh Di xuất phát đạo Khả Liễu. Quan Chi hậu Hoả đầu là Trần Hinh xuất phát đạo Phù Đái. Các đạo sắp sửa muốn họp nhau để đánh. Đoàn Thượng đương khi ấy ngầm sai người đút lót quan Thượng phẩm Phụng ngự là Phạm Du xin hãy rút quân về. Phạm Du hết sức xin vua và được vua sai sứ triệu bọn Đàm Dĩ Mông rút quân về, Đoàn Thượng mới thoát khỏi trận ấy””.  Rồi tới  “Năm Trị Bình Long Ứng thứ 5 (năm Kỷ Tỵ-1209-ND)…Tháng 3…. Ngày Đinh Tỵ, Phạm Bỉnh Di lại đánh người ở vùng Hồng là Đoàn Thượng và Đoàn Chủ tại Vệ Kiều. Người vùng Hồng thua tan, Đoàn Chủ bị hãm ở chỗ bùn lầy và bị Hà Văn Lôi đâm chết” . Vậy nếu theo ĐVSL thì Đoàn Thượng đã “làm phản” và hùng cứ ở vùng Hồng từ thời vua Lý Cao Tông. Với những chi tiết từ sự việc tới nhân vật nêu trên thì sử liệu trong ĐVSL đáng tin hơn, vì  ĐVSKTT cũng như KĐVSTGCM viết là năm “Kỷ Tỵ, [Trị Bình Long Ứng] năm thứ 5 [1209]….”, để nói về cái chết của Phạm Bỉnh Di và lúc có loạn Quách Bốc, ĐVSL cũng viết là  Phạm Du chết năm 1209 (xin coi phần trên).
Theo như ĐVSKTT, thì không thấy bộ sử này viết rõ là Đoàn Thượng “làm oai làm phúc” và “cướp bóc lương dân” như thế nào, tuy nhiên ông này cũng đã được vua Huệ Tông phong tước hầu rồi tước vương và có một bộ tướng là Đoàn Văn Lôi đã được ĐVSL viết như sau: “Năm Đinh Sửu (năm 1217-ND)…. Quan Thái Uý (Trần Tự Khánh-ND) đem người em gái của y là Trần Tam Nương gả cho Hầu tước ở vùng Hồng là Đoàn Văn Lôi. Đoàn Văn Lôi là người dũng cảm có trí lực, có tài năng và được lòng dân chúng, cho nên người vùng Hồng, đa số theo về với ông”. Năm 1217, Đoàn Thượng còn được phong tới tước Vương, ĐVSL viết: “(tháng 5) người vùng Hồng là Đoàn Thượng đem quân chúng ra hàng. Đoàn Thượng được phong tước vương” (12). “Sứ quân” vùng Hồng xưng hùng tại  chính quê quán của mình (huyện Gia Lộc) nên dễ  được dân chúng theo giúp, chắc hẳn ông ta cũng đã có những hành động được lòng dân, vì bộ tướng như thế thì chủ tướng cũng không đến nỗi tệ, nếu không muốn nói là phải tốt hơn. Thế nên Đoàn Thượng tung hoành được 21 năm (từ 1211 tới 1228) ở vùng này. Tới khi nhà Trần làm vua (Trần Cảnh lên ngôi tháng 12, năm 1225), Đoàn Thượng vẫn còn làm bá chủ vùng Hồng. Trần Thủ Độ cũng đã từng mang quân đánh Đoàn Thượng nhưng không thắng, đành phải hứa hẹn phong tước cho ông này.
ĐVSKTT: “Thủ Độ cũng hẹn phong tước cho Đoàn Thượng, định ngày hội họp, làm lễ minh thệ, nhưng Đoàn Thượng không đến họp”. Tới năm 1228 thì Đoàn Thượng bị Nguyễn Nộn đánh bại và bị giết. Không thấy sử liệu nào nói về viên bộ tướng Đoàn Văn Lôi sau khi vùng Hồng thất thủ. Khá  nhiều nhiều binh biến đã xảy ra giữa Đoàn Thượng và Trần Tự Khánh cũng như Nguyễn Nộn, người viết xin phép sẽ trình bày sau.
“Sứ quân” Nguyễn Nộn
Nguyễn Nộn hùng cứ ở Bắc Giang, xưng là Đại Thắng Vương, ông này là một “kỳ phùng địch thủ” của họ Trần và Đoàn Thượng . Họ Trần dù đã lên ngôi làm chủ Đại Việt nhưng vẫn không thể nào dẹp được ông này, đến độ phải phong vương và gả công chúa cho ông ta. Để tìm hiểu về “sứ quân” Nguyễn Nộn, trước hết xin phép lạm bàn về căn cứ địa của ông này: Bắc Giang.
Bắc Giang, theo như ĐNNTC,  tập 4, tỉnh Bắc Ninh, trang 54 : “Nước ta thời Tiền Lê là Bắc Giang; đời Lý là quận Gia Lâm; đời Trần là lộ Bắc Giang, lại gọi là lộ Kinh Bắc”. Lộ Bắc Giang tới “năm Quang Thuận (13) thứ 7, đặt Bắc Giang thừa tuyên; năm thứ 10 định bản đồ cả nước đổi gọi là Kinh Bắc, lãnh 4 phủ 20 huyện….Năm Hồng Đức thứ 21 gọi là xứ Kinh Bắc, sau gọi là Trấn” (ĐNNTG). Vậy Bắc Giang có thể coi như là tỉnh Bắc Ninh ngày nay.
Theo ĐVSL, năm 1209- Bắc Giang đang là đất của Nguyễn Nậu và Nguyễn Nải, khi viết về  cái chết của Phạm Du : “(Phạm Du) bị người ở Bắc Giang là Nguyễn Nậu và Nguyễn Nải bắt đưa cho Vương Tử Sam giết đi” (1209). Vậy Nguyễn Nộn thành “sứ quân” ở Bắc Giang từ khi nào?
ĐVSL viết: “ Năm Quí Dậu (năm 1213-ND) là năm Kiến Gia thứ 3….Trần Tự Khánh sai người sang Bắc Giang mời viên tướng của y là Nguyễn Nộn về. Nguyễn Nộn về đến nơi, Trần Tự Khánh dùng dây thép trói lại năm vòng”. Theo như đoạn văn này thì  năm 1213, Nguyễn Nộn đã là bộ tướng của Trần Tự Khánh. Rồi khi nói về cái chết của  Nguyễn Nộn, ĐVSL viết: “Năm Kỷ Mão (năm 1219-ND) là năm Kiến Gia thứ 9….Tháng 6,…Lúc trước Thái Úy ( NV: Trần Tự Khánh) sai bọn Vương Lê đem binh về Nam Sách để cùng họp nhau mà mưu đánh Nguyễn Nộn…Mùa Đông, tháng chạp Nguyễn Nộn bệnh nặng. Quân của Thái Uý ở bến Triều Đông mà Nộn đã chết rồi. Ngày Canh Ngọ, tướng của Nộn là Phí Thám đưa Thái hậu và các người con của vua là bọn Công chúa ra hàng nơi Thái Uý”.  Vậy theo ĐVSL thì Nguyễn Nộn chết năm1219.
ĐVSKTT viết: “Mậu Dần, [Kiến Gia] năm thứ 8 [1218] , (Tống Gia Định năm thứ 11). …Mùa thu, tháng 8, xuống chiếu bằt cư sĩ ở chùa Phù Đổng (14) là Nguyễn Nộn, vì bắt được vàng ngọc mà không đem dâng”. 
Rồi ĐVSKTT viết về cái chết của Nguyễn Nộnnhư sau: “Kỷ Sửu,[ Kiến Trung] năm thứ 5[1229] , (Tống Thiệu Định năm thứ 2, Nguyên Thái Tông Oa Khoát Đài năm thứ 1….Sau khi kiêm tính quân của Thương, Nộn tự xưng là Đại Thắng Vương, chè chén chơi bời bừa bãi. Nhưng Nộn cũng biết là thế không thể cùng đối lập với nhàTrần, định đến tháng 10 sẽ vào chầu, song còn do dự chưa quyết.
Đến khi ốm nặng, vua sai nội nhân tớihỏi thăm, Nộn cố gượng ăn cơm, phi ngựa để tỏ ra còn khoẻ mạnh, không bao lâu thì chết. Người dưới quyền là Phan Ma Lôi Ngầm phóng ngựa chạy trốn, không biết là đi đâu. Ma Lôi là người Chiêm Thành, buôn bán ở Ai Lao, được Nộn nhận làm nô, có tài chủ động đánh thắng, dùng binh như thần. Sau khi Nộn chết, thiên hạ lại quy về một mối”. Vậy theo ĐVSKTT thì Nguyễn Nộn chết năm 1229.
KĐVSTGCM viết : “Canh Thìn, năm thứ 10 (1220). (Tống, năm Gia Định thứ 13). Tháng 3, mùa xuân. Nguyễn Nộn giữ làng Phù Đổng540 , tự xưng là Hoài Đạo vương.  Nộn là cư sĩ chùa Phù Đổng, vì bắt được vàng và ngọc, không đem dâng triều đình, nên nhà vua hạ chiếu cho bắt. Tự Khánh xin cho Nguyễn Nộn tòng quân đánh giặc để chuộc tội; nhà vua ưng thuận, sai Nguyễn Nộn đem quân đi đánh Mán Quảng Oai. Đến đây, Nguyễn Nộn tự xương vương, dâng biểu xưng thần, xin đi dẹp giặc để chuộc tội; nhà vua sai người đem sắc đến dụ bảo Nộn.
Lời chua - Phù Đổng: Tên làng. Nay là xã Phù Đổng, huyện Tiên Du . 
Nguyễn Nộn: Người làng Phù Minh, huyện Tiên Du” .
Rồi cũng tương tự như ĐVSKTT, KĐVSTGCM viết: “Kỷ Sửu, năm thứ 5 (1229). (Tống, năm Thiệu Định thứ 2).  Nguyễn Nộn chết”. Vậy theo K ĐVSTGCM thì Nguyễn Nộn chết năm 1229.
Thật là nan giải, ba nguồn sử liệu nói về Nguyễn Nộn khác nhau, từ khi trở thành một “sứ quân” cho tới lúc chết. Để tìm hiểu sự việc, với sử liệu giới hạn hiện có, người viết thấy chỉ có thể dùng sự suy đoán để phân tích, may ra có thể tìm được một chút manh mối nào hay chăng!
ĐVSL viết khá chi tiết về việc Nguyễn Nộn trở thành “sứ quân”, cũng như việc binh biến với các “sứ quân” khác. Tuy nhiên sau khi viết là Nguyễn Nộn chết năm 1219, thì sự việc chấm dứt ở đây. Như đã trình bày ở trên, vùng Bắc Giang, năm 1209 đang bị đặt dưới sự cai quản của Nguyễn Nậu và Nguyễn Nải (15). ĐVSL đã không nói vì lý do nào Nguyễn Nộn thành bộ tướng của Trần Tự Khánh, cũng như việc ông này thành “lãnh chúa” ở Bắc Giang thay Nguyễn Nậu và Nguyễn Nải. Qua ba danh xưng: Nậu, Nải, Nộn, rất có thể Nộn là em của hai ông Nguyễn Nậu và Nguyễn Nải.
Những sự việc liên quan đến Nguyễn Nộn theo ĐVSL từ năm 1213 tới năm 1219:
-1213, tháng giêng, Trần Tự Khánh sai người sang Bắc Giang “mời” Nguyễn Nộn về kinh sư, Nguyễn Nộn bị Khánh giam giữ. Tháng 9, Trần Tự Khánh gả con gái của bà dì (16) cho Nguyễn Nộn.
-1214, tháng giêng, Nguyễn Nộn theo Trần Tự Khánh đánh kinh sư. Quân triều đình thua. Sau đó Nguyễn Nộn được Trần Tự Khánh cử đi giữ Bắc Giang. Tháng 3, Nguyễn Nộn bị người vùng Hồng là Đoàn Nhuyễn đánh, Nguyễn Nộn đánh lui người vùng Hồng và giết Đoàn Nhuyễn, nhưng cũng bị thương ở lưng. Tháng 4, Nguyễn Nộn phản Trần Tự Khánh. Tháng 6, Trần Tự Khánh đánh Nguyễn Nộn. Nguyễn Nộn được nhà vua phong tước hầu. Tháng 8, Nguyễn Nộn đánh Ô Kim hầu Nguyễn (Lý) Bát.
Những sự việc viết về Nguyễn Nộn theo ĐVSL:
- 1215, tháng giêng, hai tướng của Trần Tự Khánh là Nguyễn Đường và Nguyễn Giai thông đồng với Nguyễn Nộn đánh Trần Tự Khánh, nhưng Đường và Giai lại hàng Trần Tự Khánh. Tháng 2, Nguyễn Nộn được phong tước Vương. Tháng 3, Nguyễn Nộn đánh thắng Nguyễn Đường và Nguyễn Giai.
- 1216, tháng 5, vua Huệ Tông về với Trần Tự Khánh và sai Tự Khánh đánh Nguyễn Nộn đồng thời hạ chiếu đày Nguyễn Nộn làm lính thường.
- 1217, Trần Tự Khánh đánh Nguyễn Nộn, tướng của Khánh là Phạm Ân bị Nguyễn Nộn đánh bại, tuy nhiên sau đó, đối đầu với Khánh, Nộn lại bị thua.
- 1218, đầu mùa hạ, Trần Thừa (em Trần Tự Khánh) lãnh các đạo binh bao vây Nguyễn Nộn ở Bắc Giang, Nguyễn Nộn thua, lui về giữ Phù Ninh (17).
-1219, mùa đông, tháng chạp, Nguyễn Nộn chết vì bệnh.
Tuy nhiên ĐVSKTT cũng như VSKĐTGCM lại cho hậu thế nhiều chi tiết về ông này ở khoảng thời gian sau năm 1219.
Những đoạn viết về Nguyễn Nộn và việc nhà Trần lên ngôi theo ĐVSKTT (Nv: KĐVSTGCM viết giống như ĐVSKTT, chỉ khác về năm nhà vua Huệ Tông hạ chiếu bắt Nguyễn Nộn như đã trình bày ở trên)   :
- 1218, “mùa thu, tháng 8, xuống chiếu bằt cư sĩ ở chùa Phù Đổng là Nguyễn Nộn, vì bắt được vàng ngọc mà không đem dâng”.
- 1219, “mùa xuân, tháng 2, Trần Tự Khánh tâu xin tha cho Nguyễn Nộn, cho đi đánh giặc chuộc tội. Vua y cho. Mùa đông, tháng 10, sai Nguyễn Nộn đem quân đi đánh người Man ở Quảng Oai”.
- 1220, “tháng 3, Nguyễn Nộn giữ hương Phù Đổng, tự xưng là Hoài Đạo Vương, dâng biểu xưng thần, xin đi dẹp loạn để chuộc tội. Vua sai người đem sắc thư thư đến tuyên dụ. Song vì vua có bệnh phong, không thể chế ngự được”.
- 1223, “Tháng 12, thế quân của Nguyễn Nộn ngày càng mạnh”.
- 1224, “Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu lập công chúa Chiêu Thánh làm Hoàng thái tử để truyền ngôi cho. Vua xuất gia ở chùa Chân Giáo trong đại nội. Chiêu Thánh lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1, tôn hiệu là Chiêu  Hoàng”.
-1225, “Tháng 12, ngày mồng một Mậu Dần, Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, ngự trên sập báu, các quan mặc triều phục vào chầu, lạy ở dưới sân. Chiêu Hoàng bèn trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế. …. . Phong Trần Thủ Độ làm Quốc thượng phụ, nắm giữ mọi việc cai trị trong nước…. mời thánh phụ Trần Thừa nhiếp chín”.
-1226, “Sai Trần Thủ Độ đem quân đi đánh Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng và các man…. Lúc ấy, nhân thế suy yếu của triều Lý, giặc cướp tụ tập nhiều. Người Man ở vùng núi Tản Viên, vùng núi Quảng Oai xâm phạm đánh lẫn nhau.  Nguyễn Nộn chiếm cứ Bắc Giang , Đoàn Thượng chiếm cứ Hồng Châu  . Thủ Độ điều động các quân đi đánh dẹp.
Bấy giờ Nộn và Thượng binh thế còn mạnh, chưa dễ hàng phục được, mới phong cho Nộn làm Hoài Đạo Vương, chia cho các huyện Bắc Giang Thượng, Bắc Giang Hạ, Đông Ngạn cũng hẹn phong làm vương cho Thượng định ngày đến thề, nhưng Thượng không đến”.
- 1228, “Tháng 12, Nguyễn Nộn đánh giết Đoàn Thượng. Nộn đã phá được Thượng, nhân gộp cả quân của Thượng, cướp bắt con trai, con gái, tài sản, trâu ngựa đất Hồng Châu. Con của Thượng là Văn đem gia thuộc đến hàng. Thanh thế của Nộn rất lừng lẫy. Thủ Độ lo lắm, chia quân chống giữ và sai sứ đem thư đến chúc mừng, gia phong Nộn làm Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương, đưa công chúa Ngoạn Thiềm gả cho hắn để ngầm [5b] dò la tin tức. Nộn cũng chia nha tướng riêng cho công chúa ở. Vì thế công chúa không thể báo được tin gì”.
- 1229, mùa xuân, tháng 3, “Sau khi kiêm tính quân của Thượng, Nộn tự xưng là Đại Thắng Vương, chè chén chơi bời bừa bãi. Nhưng Nộn cũng biết là thế không thể cùng đối lập với nhàTrần, định đến tháng 10 sẽ vào chầu, song còn do dự chưa quyết. Đến khi ốm nặng, vua sai nội nhân tới hỏi thăm, Nộn cố gượng ăn cơm, phi ngựa để tỏ ra còn khoẻ mạnh, không bao lâu thì chết. Người dưới quyền là Phan Ma Lôi Ngầm phóng ngựa chạy trốn, không biết là đi đâu. Ma Lôi là người Chiêm Thành, buôn bán ở Ai Lao, được Nộn nhận làm nô, có tài chủ động đánh thắng, dùng binh như thần. Sau khi Nộn chết, thiên hạ lại quy về một mối”.
Qua những trình bày và trích dẫn ở trên, người viết có nhận xét như sau: ĐVSL đưa ra những sử liệu rất có lớp lang và liên tục, cùng những chi tiết về “sứ quân” Nguyễn Nộn từ năm 1213 tới 1219, đây là những sự kiện mà hậu thế chúng ta không thể chối bỏ, ngoại trừ nghi vấn về năm Nguyễn Nộn qua đời (chết vì bệnh, năm 1219) . ĐVSKTT và KĐVSTGCM cũng đưa ra những sử liệu thứ tự và chi tiết về Nguyễn Nộn từ lúc nhà Trần lên ngôi (1225). Đây là những sử liệu mà lớp hậu sinh đã ghi nhận qua hai bộ chính sử này, ngoại trừ nghi vấn về lúc Nguyễn Nộn “nhập cuộc” (1219). Năm 1229, Nguyễn Nộn qua đời (chết vì bệnh), thì người viết nhận xét, thì đây là chuyện không nên nghi ngờ, vì ĐVSKTT đã ghi lại  những biến cố cho đến ngày Nguyện Nộn chết. Người viết- kẻ hậu sinh- chỉ dám có thiển ý là gom chung những sự việc, để tạo nên một giả thuyết dựa theo những sử liệu hiện có:
- 1213, Nguyễn Nộn ở Bắc Giang, vì không nộp triều đình những quí vật như vàng ngọc nên bị nhà vua hạ chiếu truy nã (18), Nguyễn Nộn dựa thế lực ở Bắc Giang mang quân làm loạn. Trần Tự Khánh dùng Nộn làm tướng.
- 1213 tới 1218: những sự việc xảy ra có liên quan tới Nguyễn Nộn được ghi lại trong ĐVSL.
- 1219, Nguyễn Nộn không chết như ĐVSL đã viết, mà chỉ thua Trần Thừa một trận lớn, làng ấp bị ngập lụt vì Trần Thứa dùng thủy công để tấn công Nguyễn Nộn bằng cách phá đê (19). “Vợ con Nguyễn Nộn đều bị bắt. Nguyễn Nộn mang theo 100 người về giữ Phù Ninh (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh-ND)”. Nguyễn Nộn coi như thua một canh bạc gần cháy túi, nên phải tìm cách trốn tránh để gầy dựng lại lực lượng mới.
- 1220, từ năm này trở về sau tới lúc Nguyễn Nộn chết, sự kiện được hiểu theo sử liệu trong ĐVSKTT cũng như KDVSTGCM.
Như đã trình bày ở trên thì Nguyễn Nộn xưng hùng ở vùng Bắc Giang 16 năm (từ năm 1213 tới năm 1229), một người rất có bản lãnh. Nói về cá nhân của Nguyễn Nộn, ĐVSL có một đoạn viết rất chi tiết và lý thú về ông này như sau: “Tháng 9, Trần Tự Khánh mở trói dây thép cho Nguyễn Nộn, Nguyễn Nộn là người có gương mắt đẹp lạ lùng, lại có lòng bao dung, có tính bình thản thanh thoát. Tuy ở trong cái cảnh ngục tù mà thần sắc vẫn tự nhiên. Khi thấy bọn dũng sĩ nhảy, đối lại, ông mang theo cả cái dây xích sắt (vì đang bị trói-ND) mà nhảy, nhưng lại nhảy hơn bọn dũng sĩ. Trần Tự Khánh thấy, lấy làm lạ, lại cho làm tướng và đem người con gái của bà dì mà gả cho. Rồi lại trao cho hai ấp là Trần Khê cà Cả Lũ (Nay thuộc tỉnh Thái Bình-ND)”. (ông này đã bị Trần Tự Khánh cầm tù 8 tháng -từ tháng giêng tới tháng 9 năm 1213).
Thật là hiếm có đoạn sử liệu nào mà sử gia (cũng là Nho gia) lại hết lời ca tụng một loạn tướng như thế. Vậy thì Nguyễn Nộn phải là một nhân vật kiệt xuất, ngoài hình dáng bề ngoài với “gương mặt đẹp lạ lùng”, võ nghệ tuyệt luân, Nguyễn Nộn “lại có lòng bao dung, có tính bình thản thanh thoát”, Nguyễn Nộn phải là người được lòng dân vùng Bắc Giang; nên mới mới có thể hùng cứ một thời gian lâu dài như thế. Nguyễn Nộn lại thắng Đoàn Thượng và gồm thâu toàn bộ binh lực của ông này nên đã làm triều đình nhà Trần rúng động. Nhà Trần dù đã mang quân đánh Nguyễn Nộn, nhưng cũng không dẹp được, đến nỗi phải phong vương  và mang công chúa gả cho ông ta để lấy lòng. Tuy nhiên, số phận Nguyễn Nộn không lâu dài, ông này chết sớm vì bệnh. Thế là nhà Trần bớt được nỗi lo lắng lớn lao, dân chúng bớt lầm than vì chinh chiến, cảnh thái bình đã trở lại với đất nước.
Những cuộc binh biến giữa các “sứ quân”.
(còn tiếp)

1. Quốc Oai ngày nay là huyện Quốc Oai, thuộc tỉnh Hà Tây (phía tây bắc của tỉnh này, phía nam huyện Thạch Thất, phiá bắc huyện Chương Mỹ, phía tây thành phố Hà Nội). Tuy nhiên theo Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 4, trang 185 thì thời Lê Quang Thuận thứ  7 (Vua Lê Thánh Tôn, niên hiệu Quang Thuận), “Phủ Quốc Oai lãnh 5 huyện là Từ Liêm, Đan Phượng, Phúc Lộc, Thạch Thất và Ninh Sơn”. Chuối đời Lý, Quốc Oai là một châu.
2. Năm này phải là năm Tân Mùi chứ không phải là năm Tân Tỵ như trong ĐVSL : “Năm Tân Tỵ (năm 1211-ND) là năm Kiến Gia thứ nhất:”. Có lẽ tác giả (hoặc dịch giả) đã viết nhầm mà người viết đã không ghi chú trong phần trước (ĐVSKTT viết là : “Tân Mùi, [Kiến Gia] năm thứ  nhất [1211], (Tống Gia Định năm thứ 4)
3. Ghi chú  cuối trang 51, ĐVSKTT tập 2: “ Na Sầm: tức Na Ngạn, thuộc đất huyện Lục Ngàn, tỉnh Hà Bắc ngày nay”.
Huyện Lục Ngàn nằm phía bắc tỉnh Bắc Giang (2005).
4. Ghi chú của dịch giả: “Tây Dương là khu Cầu Giấy, Hà Nội ngày nay”.
5. Thái Tổ đây là Trần Thừa, anh của Trần Tự Khánh và Trần Thị Dung (nguyên phi của vua Lý Huệ Tông). Được gọi là Thái Tổ, dù ông này chưa từng làm vua vì ông ta là thân phụ của Trần Cảnh- Trần Thái Tông- vua đầu của nhà Trần.
6. Có lẽ cũng chẳng oan !
7.Kể ra cậu cháu cũng còn giữ được chút tình nghĩa!
8.Ghi chú trong ĐVSKTT, tập 1, cuối trang 334: “Đội Sơn: còn gọi là núi Long Đội tức núi Đọi, ở  huyện Duy Tiên, tỉnh Nam Hà ngày nay”. Nay cũng là huyện Duy Tiên, phía bắc tỉnh Hà Nam.
9. Không biết rõ Trần Tự Khánh thọ bao nhiêu tuổi .. Theo ĐVSKTT: “Giáp Ngọ, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 3 [1234], (Tống Đoan Bình năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 18, thượng hoàng (NV: Trần Thừa) băng ở cung Phụ Thiên, thọ 51 tuổi”.  Vậy Trần Thừa sinh năm 1184, Tự Khánh là em Trần Thừa, thì Tự Khánh phải sinh sau năm 1184. Tự Khánh chết lúc chưa tới 39 tuổi.
Tuy nhiên như đã trình bày trong phần mở đầu, trong mục –Gia phả họ Trần –theo như  http://vietnamgiapha.com/XemGiaPha/367/giapha.html  thì Trần Tự Khánh (1175-1223) là anh cả, Trần Thừa là em kế (1184-1134).
10. Hiển Tín Vương tên là Lý Bát, vì họ Lý đã bị đổi sang họ Nguyễn đời Trần, nên tác giả (cuối đời Trần) đã viết là họ Nguyễn thay vì họ Lý cho Hiển Tín Vương
11.  Huyện Đường Hào có lẽ ở giữa ba huyện Bình Giang, Cẩm Giàng và Gia Lộc thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay
12. Lúc này vua Huệ Tông đã về với Trần Tự Khánh (tháng 5, 1216). Gọi là hàng, nhưng Đoàn Thượng vẫn có binh quyền.
13.  Quang Thuận là  niên hiệu đầu của vua Lê Thánh Tông (từ  năm 1460 tới 1469), sau đó đổi niên hiệu là Hồng Đức (từ  năm 1470 tới năm 1497)
14. Phù Đổng nay thuộc huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội
15. Nguyễn Nộn cùng họ với hai ông này, không biết rằng Nậu, Nải, Nộn có liên hệ như  thế nào về họ hàng? Có một điều là họ Nguyễn lúc này không có nhiều người. Thời nhà Đinh, có một người họ Nguyễn ở Cổ Loa (huyện Đông Anh, tỉnh Hà Nội ngày nay) được sử sách ghi chép lại là Định Quốc công Nguyễn Bặc. Người viết tự hỏi là những nhân vật này là hậu duệ của ông Nguyễn Bặc ?
16. Mẹ của Trần Tự Khánh họ Tô, chị của Tô Trung Từ. ĐVSL lại nêu ra đây một chi tiết nữa là Tự Khánh có thêm một bà dì.
17. Phù Ninh (lời người dịch) nay  thuộc tỉnh Bắc Ninh
18. Thiển ý của ngưới viết: có lẽ Nguyễn Nộn  bị truy nã vì đã gặp được những quí vật; vốn là của triều đình; nhưng không nộp, vì có thể những quí vật này đã bị lấy đi từ trong cung, được dấu tại Bắc Ninh bởi loạn đảng Quách Bốc.
19. Phá đê! Đây là một hành động tàn nhẫn đối với dân chúng, vi phạm về qui ước chiến tranh ngày nay.


Nhà Trần khởi nghiệp

Trần Việt Bắc
Kỳ 4
Phần 3: Những cuộc binh biến giữa các “sứ quân”.
Đại Việt dưới các triều đại đầu thời nhà Lý đã trở nên khá cường thịnh, với những chiến công oanh liệt “phá Tống bình Chiêm”, tuy nhiên đến đời vua Lý Anh Tông (làm vua 37 năm, 1138 – 1175) thì chính sự ngày thêm đổ nát, “vua không phân biệt được kẻ gian tà, hình phạt không sáng suốt, … , giặc cướp nổi lên, giềng mối rối loạn, không thể nói xiết” (ĐVSKTT), như sự lộng quyền của Đỗ Anh Vũ và việc nổi loạn của đám giặc Thân Lợi. Tới thời vua Cao Tông (làm vua 35 năm, 1176-1210), thì “vua chơi bời vô độ, chính sự hình pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi như ong, đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy” (ĐVSKTT). Đến cuối đời ông vua này, nhà Lý coi như đã suy vong cực độ, công khố trống rỗng, binh lực bạc nhược, nhà Lý coi như sắp chấm dứt! Vua Cao Tông băng, con là Huệ Tông thừa hưởng một triều đại giống như một căn nhà đã mục chờ sụp đổ!
Đất nước lọan lạc, triều đình suy vong! Người giàu có thế lực, cũng như các đám cướp đã tổ chức thành những đội quân riêng, để phòng thủ cũng như để đánh lẫn nhau và coi triều đình quan lại nhà Lý  không ra gì! Cuối thời vua Cao Tông, những đám quân này sau khi đã tiêu diệt lẫn nhau, hay hợp lại với nhau, vùng trung du Bắc Việt còn lại những lực lượng chính như sau: ở Nam Định có họ Trần (Trần Lý và các con cùng em vợ là Tô Trung Từ), ở Bắc Giang có họ Nguyễn (Nguyễn Nậu, Nguyễn Nãi), ở vùng Hồng có họ Đoàn (Đoàn Thượng, Đoàn Chủ). Ngoài ra lại có những  đám vũ trang nhỏ hơn như:  Nam Sách, Sơn Lão (vùng núi phía tây kinh thành, phủ Quốc Oai tỉnh Sơn Tây) và Khoái Châu (phía bắc tỉnh Hưng Yên).
Tháng 7 năm 1209 xảy ra loạn Quách Bốc, vua Cao Tông phải bôn đào khỏi kinh thành (1). Loạn tướng Quách Bốc đã bắt theo thái tử Sảm, hoàng tử Thẩm, An Toàn hoàng hậu họ Đàm, hai công chúa cùng một số người hoàng tộc mang về Hải Ấp (góc tây bắc tỉnh Thái Bình). Tại Hải Ấp, “Bọn Quách Bốc tôn vương tử Thẩm lên làm vua” (ĐVSL).Thái tử lúc này đang ở Hải Ấp, nhờ người (Phạm Ngu và Lưu Thiện) liên lạc  được với họ Trần ở Thiên Trường (huyện Mỹ Lộc, gần Hải Ấp). Nhận được tin “mừng”này, Trần Lý và Tô Trung Từ là em vợ mang quân đánh Quách Bốc, bọn Quách Bốc thua, thế là thái tử Sảm thoát khỏi tay đám loạn quân.  Trần Lý “đón vương tử Sảm về Lỵ Nhơn lập làm vua, tôn xưng là Thắng Vương và giáng vương tử Thẩm làm tước vươngSau đó vương tử Sảm lại trở về Hải Ấp” (ĐVSL). Thái tử lấy con gái ông Trần Lý và lập “triều đình lưu vong”.  Tại đây, thái tử phong tước cho Trần Lý (tước Minh Tự) và Tô Trung Từ (chức Điện Tiền Chỉ Huy sứ) cùng những người đi theo.
Sau khi đám loạn quân Quách Bốc bỏ đi, vua Cao Tông về lại kinh thành. Nhà vua biết được thái tử Sảm đã được Trần Lý và Tô Trung Từ lập lên làm vua, bèn “sai Phạm Du đến Hồng Lộ để huấn luyện quân sĩ sắp muốn đánh người ở Thuận Lưu” (ĐVSL) là đám họ Trần và Tô Trung Từ. Lúc này ông Trần Lý đã chết, binh quyền đã trao lại cho con là Trần Tự Khánh. Biết được vua Cao Tông muốn đánh dẹp cái “triều đình lưu vong” cùng đám loạn quân đã dựng nên “triều đình phản” này, Trần Tự Khánh ra tay trước. Khánh bèn “rầm rộ đốc xuất thuyền bè, quân lính tiến đánh kinh sư” (ĐVSL). Tuy nhiên Khánh đã bị quan quân và dân chúng kinh thánh đẩy lui.
Thấy Trần Tự Khánh đã bị thua (8/1209) cậu của Khánh là Tô Trung Từ đã  đi một nước cờ cao hơn. Ông này với sự trợ lực của người con rể là Nguyễn Đà La (2) lập mưu cướp thái tử cùng thân quyến của vua Cao Tông từ tay họ Trần ở Hải ấp, sau đó kéo quân thẳng về Thăng Long, uy hiếp triều đình vua Cao Tông. Nếu làm được như vậy là có thể xong được “việc lớn”. Để có lý do làm chuyện bất ngờ và qua mắt anh em họ Trần, Tô Trung Từ viện cớ  mang quân đi đánh Khoái Châu. Trên đường theo sông Hồng tới Khoái Châu  thì ngang qua Hải Ấp (xin coi bản đồ đính kèm).
Khoái Châu nằm trên đường từ Hải Ấp đến Thăng Long theo thủy đạo sông Hồng. Thế là Tô Trung Từ  “ép binh lính đánh Khoái châu. Nhân đó, tiến tới Hải Ấp bắt bọn vương tử Sảm đem về kinh sư” (ĐVSL).
Tô Trung Từ đã thành công và đạt mục đích là bắt được thái tử Sảm, hoàng tử Thẩm, hai công chúa và An Toàn hoàng hậu họ Đàm làm “con tin”,  sau đó kéo quân về kinh sư uy hiếp vua Cao Tông và  triều đình nhà  Lý (1/1210). Anh em họ Trần là Trần Thừa và Trần Tự Khánh đã bị ông cậu lừa một vố rất đau.
Tháng 7, 1210 vua Cao Tông băng, thái tử Sảm lên ngôi là Huệ Tông. Trần Tự Khánh không muốn bỏ qua cơ hội, ông này kéo quân về kinh thành, lấy cớ là viếng tang vua Cao Tông và mời ông cậu cùng đi, tuy nhiên Tô Trung Từ nghi ngờ, vì vậy Trần Tự Khánh kéo quân về lại Thiên Trường.
Tại kinh sư, thấy Huệ Tông mới lên ngôi lại còn trẻ, Tô Trung Từ lại càng lộng hành hơn nữa, nhưng bị quan lại triều đình nhà Lý chống cự, tuy nhiên họ đã bị ông này đàn áp thẳng tay, một số những người này đã bị bắt và bị giết một cách thảm khốc. Một bộ tướng của Từ là Nguyễn Tự vì có hiềm thù với con rể của Từ là Nguyễn Đà La, Nguyễn Tự muốn giết ông con rể này rồi làm phản, chuyện bại lộ, Từ bèn “tước đoạt binh quyền của Nguyễn Tự, Nguyễn Tự sợ chạy sang Quốc Oai” (ĐVSL).
Sau một năm rưỡi thao túng kinh thành, Tô Trung Từ cũng đã bị tiêu diệt bởi quan lại nhà Lý: “bị chồng của Công chúa làm Quan nội hầu là Vương Thượng giết chết” (ĐVSL) (đã được trình bày trong phần 2). Sau khi Tô  Trung Từ chết (năm Tân Tỵ, tháng 6, 1211) Nguyễn Tự -bộ tướng cũ  của T ừ, “ban đêm dẫn đồng đảng ra đánh cắp hoá vật  ở trong phủ của nhà vua. Vua giận hạ chiếu bắt Nguyễn Tự rất gắt gao. Nguyễn Tự chạy trốn sang vùng Sơn Lão thuộc Khô Sách” (ĐVSL). Tại đây, Nguyễn Tự đã giúp dân vùng Quốc Oai đánh dẹp làng Sơn Lão, đám này thường tấn công, và cướp bóc các vùng chung quanh phủ Quốc Oai. Nguyễn Tự đã dẹp được làng này,  sau đó trở thành một “sứ quân” và dựng nên vùng cát cứ riêng của mình ở phủ Quốc Oai, phía tây Thăng Long.
Vùng trung du Bắc Việt lúc này có những lực lượng chính như sau:
Họ Trần ở Thiên Trường, do hai anh em họ Trần là Trần Thừa và Trần Tự Khánh lãnh đạo (huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, phía hữu ngạn sông Hồng).
Họ Đoàn ở Hồng lộ, do Đoàn Thượng và Đoàn Chủ cầm đầu (phía tả ngạn sông Hồng, gồm các quận Gia Lộc, Bình Giang, Thanh Miên và  Ninh Giang tỉnh Hải Dương ngày nay).
Họ Nguyễn ở Bắc Giang, do Nguyễn Nậu và Nguyễn Nãi lãnh đạo ( phía bắc sông Đuống – tên cổ thời là sông Thiên Đức, gồm các quận Tiên Du, Từ Sơn, Quế Võ tỉnh Bắc Ninh ngày nay).
Những nhóm võ trang nhỏ hơn như:
Nguyễn Tự (huyện Quốc Oai, Thạch Thất, Chương Mỹ, phía tây kinh đô Thăng Long, thuộc tỉnh Hà Tây ngày nay).
Khoái châu ( huyện Hậu Giang, Kim Đồng, An Thi tỉnh Hưng Yên ngày nay). Người viết không tìm thấy sử liệu nào nói về người lãnh đạo của lực lượng này).
Nam Sách (huyện Nam sách, tả ngạn sông Thái Bình, phía tây tỉnh Hải Dương, phía tây nam tỉnh Bắc Ninh ngày nay.  Phạm Võ là thủ lãnh của vùng này).
Tô Trung Từ chết, kinh thành lúc này không có một lực lượng nào đáng kể, ngoại trừ một đám quân dưới tay ông con rể của Tô Trung Từ là Nguyễn Đà La, nhưng ông này không đủ tài và lực, lo sợ những lực lượng bên ngoài sẽ kéo về kinh thành tiêu diệt mình. Nguyễn Đà La muốn liên kết với Trần Thừa “xin tiến binh dẹp yên đất Khoái” (ĐVSL). Vì nếu quân họ Trần chiếm được Khoái châu và án binh tại đây, thì Nguyễn Đà La sẽ không còn lo lắng về việc những lực lượng này có thể mang quân về kinh sư,  Khoái châu ở gần  kinh thành về hường đông nam. Hơn nữa, quân họ Trần sẽ làm một “nút chận” để cản quân vùng Hồng kéo về Thăng Long. Nguyễn Đà La “cùng với vợ của y là Tô thị lên thuyền sang đạo Thuận Lưu để gặp tướng của Tô Trung Tự là Nguyễn Trinh”. Tại đây, Nguyễn Đà La “bị Trinh giết chết rồi cướp lấy Tô thị” (ĐVSL). “Thù chồng phải trả”, bà họ Tô sai người tố cáo với Trần Thừa ( là ông anh họ của bà). Trần Thừa lúc này đang ở Hải Ấp biết chuyện, bèn âm mưu giết Trinh. Trần Thừa “sai người đi triệu Trinh đến Hải Ấp, Trinh không đến” (ĐVSL). Không muốn động binh, Trần Thừa khuyên cô em họ dụ Trinh để giết (3).
Biết được cậu mình đã chết, Trần Tự Khánh có lẽ đã kéo quân về kinh thành, tuy nhiên không thấy sử liệu nào nói về những họat động của Trần Tự Khánh tại kinh thành lúc này, ngoại trừ việc “Trần Tự Khánh an táng Tô Trung Từ ở làng Hoạch” (ĐVSL)
Nguyễn Đà La chết, đám quân của Tô Trung Tự như rắn mất đầu, tức khắc tan rã. Dù kinh thành lúc này, tạm thời không bị lực lượng nào thao túng, nhưng với một ông vua không có khả năng cùng với một đám quan lại “vô lực vô năng”, triều đình nhà Lý như đang đợi một lực lượng nào đó tới để “bảo hộ”.
Họ Đoàn ở vùng Hồng - tương đối ở gần kinh thành - đã không bỏ qua cơ hội. Để có đường mang quân về kinh thành, “ người ở trong vùng Hồng đánh ải Quảng Điểm” (4) (ĐVSL). Trần Tự Khánh cũng không muốn để mất dịp may, “ sai Lại Linh đốc xuất binh lính cùng với viên tướng ở Khoái châu là Nguyễn Đướng chống cự chúng. Nguyễn Đường bị người giữ ải bắt đem trao cho người ở vùng Hồng” (ĐVSL). Nguyễn Đường có lẽ chỉ là một tùy tướng  của họ Trần được sai đi trước để dò đường, làm nội ứng khi Lại Linh đánh Khoái châu. Mục đích của Linh đánh chiếm vùng này là chặn đường người vùng Hồng, đồng thời mở đường tiến quân về kinh đô của Khánh. Tuy nhiên, khi Lại Linh tấn công Khoái châu, thì Nguyễn Đường đã bị người giữ ải phát giác và bắt trao cho người ở Hồng lộ. Thấy âm mưu của mình bị bại lộ, “Trần Tự Khánh tức giận, mở lối cho nước sông chảy vào các ấp rồi trở về” (5) (ĐVSL). Đây là một hành động “giận cá chém thớt” tàn nhẫn của Trần Tự Khánh đối với người dân vùng này. Thế là “dân ở Khoái châu thất vọng bèn kéo về nương tựa ở vùng Hồng” (ĐVSL).
Quân của Trần Tự Khánh kéo về, người ở Khoái châu theo phe vùng Hồng. Tháng 7 năm 1211 -một tháng sau khi Tô Trung từ chết- hai thủ lãnh “người ở vùng Hồng  là Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi đem binh về kinh sư” (ĐVSL). Tại kinh sư, Thượng và Lôi nói vu cho Khánh với vua là ông này muốn làm chuyện phế lập. Vua Huệ Tông nổi giận, cô em của Khánh đang là Nguyên phi, liền bị nhà vua thất sủng, giáng xuống làm ngự nữ, đồng thời “nhà vua hạ chiếu cho các đạo binh đánh Trần Tự Khánh” (ĐVSL) và phong tước hầu cho Đoàn Thượng. Vua Huệ Tông muốn dùng Đoàn Thượng để diệt Tự Khánh.
Chưa kéo binh về được Thăng Long, “Trần Tự Khánh đem binh đánh người ở  vùng Ma La là Đinh Cảm, nhưng thua rồi rút quân về. Mùa đông Trần Tự Khánh lại đánh lấy ấp ấy. Đầu tiên đánh núi Đội (6), giết và bắt được rất nhiều người, Đinh Cảm phải chạy sang Sơn Lão”(ĐVSL). Vậy là tháng 7, Khánh thua trận ở Khoái châu, trên đường về lại Thiên Trường,Trần Tự Khánh nhân tiện mang quân đánh Đinh Cảm ở huyện Duy Tiên- phía hữu ngạn sông Hồng, nhưng lại bị bại trận. Ba tháng sau – tháng 10 năm 1211, Khánh đánh phục thù, thắng và chiếm được vùng đất phía tây bắc Thiên Trường (huyện Mỹ Lộc), vùng ảnh hưỡng của họ Trần được mở rộng thêm.
Thấy họ Trần mở rộng địa bàn hoạt động, Họ Đoàn cũng không chịu thua, bèn mang “người ở vùng Hồng đánh Nam Sách, Phạm Võ đầu hàng” (ĐVSL), sau đó Đoàn Thượng sai Đoàn Trì Lỗi (7) giữ Nam Sách. Ông này không được lòng dân Nam Sách, Phạm Võ thừa dịp nổi lên chống lại, và giết Đoàn Trì Lỗi. Để phục thù cho Lỗi, “người vùng Hồng lại đốc xuất binh lính qua sông (NV: Thái Bình) đánh Nam sách. Người Nam Sách chạy trốn ở núi Kỳ Đặc (8) , Phạm Võ mắc tai ách mà chết”(ĐVSL). Người Nam Sách thua, Phạm Võ chết. “Dân Nam Sách sai người đi cầu cứu Trần Tự Khánh” (ĐVSL). Làm sao Khánh có thể bỏ lỡ được dịp may này, “Trần Tự Khánh sai tướng là Đinh Khôi đánh vùng Hồng. Quân vùng Hồng thua chạy” (ĐVSL).
Lúc này quân vùng Hồng đã phải chia ra làm ba hướng khác nhau. Một toán đang ở kinh sư, một toán khách tấn công vùng Nam Sách, toán còn lại lo cố thủ căn cứ địa. Trần Tự Khánh đã nhận thấy sự phòng thủ yếu ớt của người vùng Hồng, thêm sự cầu cứu của dân Nam Sách. Khánh cho Đinh Lôi tấn công vùng Hồng. Đinh Lôi thắng trận, sau đó “Trần Tự Khánh lại đi kinh lược Lạng châu đến núi Tam Trĩ (9). Lúc bấy giờ hết cả đất đai ở đấy Trần Tự Khánh lấy được hết cả” (ĐVSL). Vậy là nguyên một vùng rộng lớn ở trung du Bắc Việt - gồm các tỉnh Nam Định, Hưng Yên và Hải Dương - đặt dưới ảnh hưởng của họ Trần.
Dù chiếm được đất, nhưng các tướng dưới quyền Đoàn Thượng và người ở vùng này vẫn không tuân phục Trần Tự Khánh, những cuộc chiến vẫn diễn ra liên tục ở đây . Rồi ở vùng Hồng họ Đoàn cũng sẽ  khôi phục lại lực lượng để chống họ Trần và tranh hùng cùng họ Nguyễn ở Bắc Giang.
Họ Trần lúc này đã tạo được binh lực mạnh nhất ở châu thổ sông Hồng. Về những vùng họ Trần đã chiếm,  không thấy sử liệu nào nói về việc cai trị, tuyển quân hay thu thuế để nuôi quân, nhưng để có được một đội quân hùng mạnh thì quân lương là một vấn đề ưu tiên hàng đầu. Họ Trần phải có một kế hoạch định sẵn, sự hoạch định việc cai trị tới lúc này, vẫn đang là một câu hỏi cho người viết.
Đạt được một vùng rộng lớn, đông dân cư và tương đối trù phú, họ Trần mưu tính kế hoạch lớn hơn nữa là mang quân về kinh đô Thăng Long để thao túng triều đình nhà Lý. Hai tháng sau  khi chiếm được vùng Hồng, “tháng chạp (NV: tháng 12, năm 1211) Trần Tự Khánh rầm rộ kéo binh đến đóng ở bết Tế Giang” (ĐVSL).
Lúc này đám quân của Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi có lẽ đã rút khỏi kinh thành (10) vì muốn tránh phải đối đầu với Trần Tự Khánh,dù nhà vua cũng đã ra chiếu chỉ cho các đạo binh đánh Tự Khánh, nhưng không có lực lượng nào là địch thủ của ông này. Khánh kéo đại binh về Thăng Long, lực lượng vùng Hồng bắt buộc phải triệt thoái.
Tại kinh sư, lúc này đã xảy ra một biến cố rùng rợn là cảnh “mẹ “ghẻ” giết con chồng” một cách tàn bạo để bảo vệ chức Thái hậu cùng địa vị họ hàng của mình. Thái hậu họ Đàm, mẹ của vua Huệ Tông (An Toàn hoàng hậu), 6 tháng trước có nghe Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi nói vu là Trần Tự Khánh có ý muốn làm chuyện phế lập. Trần Tự Khánh mang đại quân về kinh đô. “Thái hậu nghe quân đến, ngờ Trần Tự Khánh có ý mưu việc phế lập. Trần Tự Khánh bèn cắt tóc mà thề với trời đất rồi lại sai công chúa Thiên Trinh (11) tâu với bà Thái hậu rằng là mình không có ý chi khác. Thái hậu cũng không tin. Một đêm bà Thái hâu sai bắt Nhân Quốc vương (12) và hai Vương tử là người con trai thứ sáu, người con trai thứ bảy, cả ba đều bị đem dìm xuống cái giếng trong khu nhà của vua, để vùi lấp cái manh mối của việc cải lập. Xong rồi sai khiêng những cái thây ấy để ở ngoài cửa cung Lâm Quang” (ĐVSL). Thật là một việc hết sức kinh khủng, ba người em cùng cha khác mẹ của vua Huệ Tông bị mẹ đẻ của mình giết chết một cách thảm khốc mà nhà vua không làm gì được. Viên hoạn quan “sâu dân mọt nước”  Đàm Dĩ Mông là anh của thái hậu họ Đàm có lẽ đã tham dự vào biến cố này, vì trước khi xảy ra biến cố này, khoảng thời gian giữa tháng 7 và tháng 10 “nhà vua hạ chiếu cho Đàm Dĩ Mông được phục chức, được mời tham dự  việc triều chính” (ĐVSL). Đây là việc mà một ông vua nhu nhược có lẽ bị buộc phải làm, vì bị áp chế bởi một bà mẹ cùng với đám ngoại thích gian ác. Sự việc đưa đến một hậu quả khó lường cho nhà Lý (13). Các hoàng tử bị giết, xác vất một đống ngoài cửa hoàng cung. Nhà vua thì như vậy, quan lại nhà Lý cũng chả ra gì, “Các quan viên theo hầu vua đều sợ Thái hậu nên không dám nhìn. Chỉ có một viên quan nhỏ là Trịnh Đạo khóc than vô cùng thảm thiết rằng: “Tiên quân đi đâu mà khiến cho ba người con bị hại như thế này!”...Vua Cao Tông khi vừ mới mất có câu đồng dao rằng: “Cao Tông táng vị tất, tam thi tích vi nhất”. Dịch nghĩa: “Cao Tông mất chưa táng, ba thây một đống nằm” (ĐVSL).
Dòng tộc nhà Lý đã bị bà Thái hậu họ Đàm sát hại thảm khốc. Vua Huệ Tông không có con trai, các anh em của nhà vua bị giết, quan lại thì không ra gì, nhà Lý thật sự đã hết người!
(còn tiếp)

1. Sự việc xảy ra đã được viết  trong phần 2 “Loạn sứ quân”
2. Nguyễn  Đà La sau này  làm “thuyết khách” để khuyên  Trần Thừa đánh người vùng Hồng  khi Tô Trung Từ bị giết chết.
3. Nguyễn Trinh cũng đâu có quá dại. Đến thì chết ngay lập tức! Không đến thì chư a chắc đã  chết, mà nếu có chết sẽ chết sau ! Hơn nữa đang có quân trong tay, đánh thì đánh. Vậy thì việc gì phải đến. Tuy nhiên, Trinh không chết vì bị Trần Thừa giết màTrinh đã phải chết vì tay bà họ Tô.
4. Người viết chưa tra cứu được “ải”  Quảng Điểm ở vị trí nào, chỉ biết “ải” này nằm ở Khoái châu và đoán là tọa lạc phía tả ngạn sông Hồng.
5. Ghi chú trong bản dịch :“Trần Tự Khánh tức giận, mở lối cho nước sông chảy vào các ấp (của người Hồng ND)”.  Người viết nghĩ  là Trần Tự Khánh phá đê để làm lụt vùng Khoái châu , vì vùng Hồng ở tại Hưng Yên, khá xa nởi xảy ra biến cố. Hơn nữa,  câu tiếp theo trong ĐVSL là vì biến cố này, dân Khoái châu bèn nương tựa người ở vùng Hồng.
6. ĐVSKTT, quyển 1, trang 224  : “ Đinh Hợi, [Thiên Phúc] năm thứ 8 [987] , (Tống Ung Hy năm thứ 4). Mùa xuân, vua lần đầu cày ruộng tịch điền ở núi Đọi được một hũ nhỏ vàng
Ghi chú cuối trang “ Núi Đọi, tên chữ Hán là Đội sơn hoặc Long Đội, ở xã Đọi Sơn, Huyện Duy Tiên, nay thuộc tỉnh Nam Hà.
ĐNNTC, tập 3, trang 182: “Núi Long Đôi: ở xã Đọi Sơn phía đông nam huyện Duy Tiên”.
NV: ngày nay nơi này có thắng tích là chùa Long Đội.
7. Đoàn Trì Lỗi: người viết không truy cứu được ông này là ai, chỉ phỏng đoán ông này là em hay con của Đoàn Thượng hoặc Đoàn Văn Lôi.
8. “Người Nam Sách chạy trốn ở núi Kỳ Đặc” (ĐVSL). Người viết không tra cứu được tên núi Kỳ Đặc ở đâu. Tuy nhiên, tìm thấy tên núi khá gần Nam Sách là núi Phượng Hoàng, có tên khác là Kiệt Đặc, người viết đoán núi Kỳ Đặc là núi này. ĐNNTC, tập 3, trang 397 có viết về tên nuí Kiệt Đặc như sau: “Núi Phượng Hoàng: ở cách huyện Chí Linh 12 dặm về phía bắc, có tên nữa là núi Kiệt Đặc, ngọn giữa cao vót, hai cánh hai bên như hình chim phượng, nên gọi tên thế”.
9. Người viết chưa tra cứu được vị trí của núi Tam Trĩ.
10. Không thấy sử liệu nào diễn tả việc rút quân của Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi ra khỏi kinh sư.
11. Không truy cứu được công chúa Thiên Trinh là ai mà Trần Tự Khánh lại có thể sai đi để gặp thái hậu .
12. Người viết chưa truy cứu được tên của vị này cùng hoàng tử thứ sáu và thứ bảy của vua Cao Tông.
13. Về sau, vua Huệ Tông phát điên loạn có lẽ cũng vì một phần bị ảnh hưởng bởi biến cố này: “Đinh Sửu, [Kiến Gia] năm thứ 7 [1217] , (Tống Gia Định năm thứ 10). Mùa xuân, tháng 3, vua dần dần phát điên, có khi tự xưng là Thiên tướng giáng, tay cầm giáo và mộc, cắm cờ nhỏ vào búi tóc, đùa múa từ sớm đến chiều không nghỉ, khi thôi đùa nghịch thì đổ mồ hôi, nóng bức khát nước, uống rượu ngủ li bì đến hôm sau mới tỉnh” (ĐVSKTT).


Nhà Trần khởi nghiệp - Kỳ 5

Trần Việt Bắc



                                               
(Bản đồ được sao lại từ kỳ 4 để độc giả dễ tham khảo)
Phần 3: Những cuộc binh biến giữa các “sứ quân”. (Tiếp theo)
Âm mưu của Trần Tự Khánh  là mang quân về kinh thành để thao túng triều đình nhà Lý. Niềm mong muốn của Tự Khánh đã đạt được như ước nguyện sau hai lần không thành công. Đóng quân tại Thăng Long, uy hiếp vua Huệ Tông, dùng hiệu lệnh của nhà vua để tỏ ra có chính nghĩa là một điều mà những lực lượng khác cũng đang muốn làm.  Dù họ Trần có binh lực mạnh, nhưng nỗi lo của Trần Tự Khánh là nếu Bắc Giang, vùng Hồng và những lực lượng khác hợp lại để cùng tấn công thì ông ta sẽ khó chống nổi. Hơn nữa, Nguyễn Tự đang hùng cứ ở Quốc Oai (phía tây thành  Thăng Long). Nếu Nguyễn Tự cùng với họ Nguyễn ở Bắc Giang, họ Đoàn ở vùng Hồng, ba mặt giáp công, Trần Tự Khánh chắc chắn sẽ bị nguy khốn. Để giải toả nỗi lo trong gan ruột, Trần Tự Khánh đã đi một nước cờ khá cao: lập liên minh với Nguyễn Tự để tạo thêm sức mạnh và cùng nhau đi tấn công các "sứ quân" khác theo sách lược "tiên hạ thủ vi cường".
ĐVSL viết: (năm 1212) "Quan Minh Tự ở Thuận Lưu là Trần Tự Khánh cùng với Nguyễn Tự hội họp nhau ở bến Triều Đông thề là đến chết vẫn kết giao với nhau mà hết lòng giúp nước, cùng chung dẹp yên cho dân cái họa nhiễu loạn. Rồi chia theo hai bờ con sông lớn, mỗi người tự quản lãnh mọi việc một bên. Từ Thượng Khối đến Na Ngạn, con đường ven theo Bắc Giang và làng ấp ở Lục Lộ thì thuộc về Trần Tự Khánh. Từ Kinh Ngạn đến Ô Diên thì thuộc về Nguyễn Tự. Hẹn nhau đến tháng 3 họp binh đánh người vùng Hồng".
Thế là "mũi giáo" kề bên hông Tự Khánh đã được quay sang hướng khác. Tại kinh đô, Trần Tự Khánh "ép" (1) vua Huệ Tông phong cho mình tước hầu cho có danh vọng. ĐVSL "Ngày Canh Tuất nhà vua phong Trần Tự Khánh lên tước Hầu với danh hiệu là Chương Thành". Để mở mang thêm vùng ảnh hưởng, Tự Khánh sai bộ tướng của mình là " Đinh Khôi đánh Lạng Châu, làm hàng phục được Lạng Châu và cướp các tài vật trong nhà Công chúa Thiên Cực rồi kéo đi" (2) .
Sau đó, “Trần Tự Khánh trở về bến Tế Giang”( ĐVSL). Bến Tế Giang nằm tại huyện Văn Giang, góc tây bắc của tỉnh Hưng Yên trên bờ sông Hồng, phía nam thành Thăng Long. Tự Khánh kéo quân về đây để cản đường tiến về kinh đô của đám Khoái Châu và vùng Hồng. Hơn nữa, Tự Khánh đã có lần mang quân về kinh đô cướp bóc, nhưng đã bị dân chúng tại kinh thành đánh bại phải bỏ chạy. Vì thế Tự Khánh đã cảm thấy là ông ta bị cả triều đình nhà Lý và dân chúng oán ghét, nên kéo đóng quân ở bên ngoài kinh đô, tuy nhiên không quá xa để có thể mang quân vào trong kinh đô bất cứ lúc nào.
Lúc này nhóm liên minh của Trần Tự Khánh là "Nguyễn Tự  đánh người Cát Lợi là Ngô Thưởng Vu và Võ Cao, bị tên bắn trúng bèn trở về ở ngõ Tây Dương. Hơn một tuần …. khí độc lại phát lên mà chết"(3) (ĐVSL).Nguyễn Tự chết, viên phó tướng là Nguyễn Cuộc lên nắm quyền.
Để dò xét phản ứng của Nguyễn Cuộc, với hy vọng là dùng đám quân kề bên phía tây kinh đô này để chống lại Trần Tự Khánh ở phía nam, "Nhà vua sai người đến vỗ về dân chúng ở đấy" (ĐVSL).  Tuy nhiên Nguyễn Cuộc biết mình không đủ mạnh, sợ Trần Tự Khánh tấn công, nên phải giữ "minh ước" với Trần Tự Khánh. Nguyễn Cuộc giết sứ giả của nhà vua để chứng tỏ Quốc Oai vẫn còn là liên minh với Thuận Lưu, dù Nguyễn Tự đã chết.  Thấy sứ giả mình sai đi bị giết, "nhà vua giận lắm, mới tự làm tướng dẫn quân đi đánh Nguyễn Cuộc ở ngoài thành Tây Dương. Lúc tiến đến ngõ Phổ Hỷ, quan quân nhà vua thua to. Cây bảo kiếm nhà vua dùng cũng mất. Vua phải ra roi giục ngựa mà chạy về đến ngõ Diêu Tắc mới thoát được". Giận quá mất khôn, vua Huệ Tông đã làm một việc hết sức dại dột và nguy hiểm. Triều đình không còn ai để can ngăn nhà vua hay sao? Hoặc là cử một viên tướng nào thay mình đi đánh đám giặc cỏ này.
Lời bàn của người viết: có lẽ không phải vua Huệ Tông thoát chết, mà nhà vua được Nguyễn Cuộc tha không giết. Vì nếu Nguyễn Cuộc giết vua, Trần Tự Khánh sẽ lợi dụng cơ hội phất cờ chính nghĩa, mang quân sang đánh kẻ thí vua là Nguyễn Cuộc. Dẹp xong Nguyễn Cuộc, với triều đình không vua, Tự Khánh mang quân vào thành và xưng vương, ai dám chống! Hoặc sẽ làm như Tào Tháo thời Tam Quốc bên Trung Hoa, dựng nên một ông vua bù nhìn rồi Tự Khánh sẽ làm tướng quốc, dùng nhà vua để sai khiến mọi người. Nguyễn Cuộc là một người biết tính toán, vì nếu giết vua thì mang tiếng là kẻ thí vua, nếu ông ta không bị Trần Tự Khánh giết thì sẽ cũng sẽ bị mọi người truy lùng và Nguyễn Cuộc sẽ không còn đất dung thân. Trần Tự Khánh cũng đi một nước cờ khá  cao, không giúp nhà vua để đánh Nguyễn Cuộc, vì như thế trái với lời thề của "minh ước Quốc Oai - Thuận Lưu". Trần Tự Khánh đang chờ "nước đục thả câu".
Muốn tránh bị Trần Tự Khánh kềm chế, nhà vua tìm cách rời khỏi kinh thành. Tìm lý do để Tự Khánh không nghi ngờ, " Nhà vua cùng Thái hậu đi thăm chơi nhà viên quan trong hàng Đại Liêu ban ở Đông Ngạn là Đỗ Thưởng" (4) (ĐVSL). Vừa tới nhà ông quan này, "nhà vua lại sắp muốn đi Lạng Châu".  Đâu có thể để cho "con mồi " chạy trốn dễ dàng,  "Trần Tự Khánh …dẫn quân đến kinh sư và sai các viên tướng của y là bọn Lại Linh, Phan Lân đem binh đến nhà của Thưởng để đón xa giá nhà vua về kinh. Nhà vua vừa sợ vừa nghi ngờ, đêm đó nhà vua đi Lạng Châu. Bọn Lại Linh và Phan Lân nắm cương ngựa, cúi đầu xin nhà vua ở lại, vua mới thôi. Ngày hôm sau Chương Thành hầu là Trần Tự Khánh đóng quân ở bến Đông Ngạn đón vua" (ĐVSL). Thế là cả thái hậu và nhà vua lại nằm trong tay Tự Khánh. Kéo quân về kinh thành, đóng ở Hạc Kiều, Trần Tự Khánh ép nhà vua "ra lệnh cho trăm quan văn võ đều phải nghe mệnh ở Chương Thành hầu (Trần Tự Khánh – NV)" (ĐVSL). Tại kinh thành, vẫn có những quan lại nhà Lý như Doãn Tín Dực tìm chống lạì Trần Tự Khánh, việc bại lộ, Doãn Tín Dực bị đã bị bắt. Để tìm cách bắt Doãn Tín Dực, Trần Tự Khánh không ra tay trực tiếp, mà  "ném đá dấu tay", ông ta được em của thái hậu (5) là "Đàm Kinh Bang đem những tội trạng của quan Nội minh tự là Doãn Tín Dực trình bày với Trần Tự Khánh" (ĐVSL). Trần Tự Khánh tức khắc  ngấm ngầm thi hành mưu mô, " sai quan Điện tiền Chỉ huy sứ là Nguyễn Ngạnh đem các quan chức đô (quan võ) vào trong cung cấm hô to lên rằng: "Doãn Tín Dực a dua nịnh hót theo ý của chúa thượng, làm rối loạn việc cai trị quốc gia, ra vào nơi cung cấm không rõ danh phận. Tôi xin trừ bỏ đi, chớ để những lời khen chê bàn tán" . Tự Khánh bắt Doãn Tín Dực, mang về Mỹ Lộc, Nam Định là căn cứ địa của họ Trần để giam ông này.
Thái hậu, mẹ vua Huệ Tông cũng tìm cách để triệt hạ Trần Tự Khánh, " Thái hậu ngầm sai tên Tiểu thị vệ Hỏa đầu là Vương Thường đi mời viên tướng đạo Phù Liệt (6) và (7) Phan Thế về. Bọn Ngô Nãi ở đạo Bắc Giang ước hẹn với nhau đến ngày Giáp dần tháng ấy thì cùng phát binh đánh lén Trần Tự Khánh. Ngày Giáp dần bọn Vương Thường và Phan Thế tiến đánh úp quân của Trần Tự Khánh ở ngoài cửa Đại Hưng(8)và muốn nhân đó vào hậu cung bắt người mẹ là Tô thị (9). Phạm Thị (10)biết được cái mưu ấy bèn ngầm đem Tô thị leo qua thành rồi lên ghe mà đi trốn. Lúc bấy giò trong quân không có phòng bị nên vừa thấy quân của Vương Thường và Phạn Thế mới đến là đều thua chạy. Trần Tự Khánh ở tại bến Đại Thông không hay biết gì cả".
Vậy là quân Phan Thế thắng được một đám quân của Trần Tự Khánh, tuy nhiên chưa trực chiến với Tự Khánh. Không thấy ĐVSL nói về tình trạng của đạo Bắc Giang dù đạo quân này đã ước hẹn để cùng đánh Tự Khánh. “Giận cá chém thớt”, “Trần Tự Khánh dẫn quân vào cung cấm đốt cầu Ngoạn Thiềm rồi kéo về bến Đại Thông” (ĐVSL).  Trần Tự Khánh nghi ngờ Nguyễn Nộn (lúc này đang ở Bắc Giang) có liên quan đến việc này, bèn tìm cách lừa để bắt Nộn, “Trần Tự Khánh sai người sang Bắc Giang mời viên tướng của y là Nguyễn Nộn về. Nguyễn Nộn về đến nơi, Trần Tự Khánh dùng dây thép trói lại năm vòng” (ĐVSL) (11) và giam Nguyễn Nộn từ tháng giêng tới tháng 9. Sau đó Tự Khánh thấy Nguyễn Nộn có tài nên dùng ông này làm tướng dưới quyền.
Không chịu được sự áp bức của Trần Tự Khánh, vua Huệ Tông ngầm sai Đàm Dĩ Mông, Đoàn Thượng và “nhà vua tự làm tướng đi đánh Trần Tự Khánh ở Mễ Sở” (12) (ĐVSL).Tuy nhiên không thấy ĐVSL nói về kết quả sự kiện này, có lẽ Trần Tự Khánh đã biết được sự việc, nên đề phòng và chuyện tấn công phải huỷ bỏ. Sau đó “Trần Tự Khánh đánh châu Quốc Oai, châu này phải hàng” (ĐVSL). Thấy nhà vua và thái hậu luôn tìm cách để triệt hạ mình, Trần Tự Khánh thả Doãn Tín Dực là người mà Tự Khánh đang cầm tù ở Mỹ Lộc,  đồng thời hối lộ nhiều tiền của cho ông này để ông này tâu với nhà vua là ông ta vẫn trung thành với nhà vua. Doãn Tín Dực tâu với nhà vua ngược lại với điều Tự Khánh nhờ vả: Trần Tự Khánh muốn cướp ngôi vua (13). Sau việc này, nhà vua phong chức Thái phó và tước Hầu cho Đoàn Tín Dực, rồi sai Đàm Dĩ Mông đốc xuất quân đánh Trần Tự Khánh.
Từ lúc thái hậu và nhà vua nghe lời tâu của Đoàn Tín Dực thì càng oán ghét Tự Khánh hơn. Ghét anh thì ghét luôn cả em, em gái của Trần Tự Khánh là Thuận Trinh phu nhân, vợ vua Huệ Tông. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (ĐVSKTT) viết như  sau: “Thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc, thường chỉ phu nhân mà nói là bè đảng của giặc, bảo vua đuổi bỏ đi; lại sai người nói với phu nhân bảo phải tự sát. Vua biết mới ngăn lạiThái hậu bỏ thuốc độc vào món ăn uống của phu nhân. Mỗi bữa ăn vua chia cho phu nhân một nửa và không lúc nào cho rời bên cạnh.”
Kịch chiến tại thành Thăng Long
Trần Tự Khánh biết nhà vua và thái hậu nhất định tìm cách triệt hạ mình, và biết em gái mình đang bị thái hậu tìm cách giết hại, ông ta tính chuyện đánh kinh sư. Lúc này triều đình có được đám quân của Đàm Dĩ Mông, và quân ở Bắc Giang cùng với vùng Hồng kéo về trợ lực, nên đã có một lực lượng tương đối mạnh. Nếu Trần Tự Khánh muốn đánh kinh thành, ông ta phải có một lực lượng tương đương hay mạnh hơn quân triều đình. Lúc kéo quân về Thăng Long, Tự Khánh có ba tướng dưới quyền là Đinh Khôi,  Lại Linh, Phan Lân và sau đó nhận thêm Nguyễn Nộn làm tướng. Tuy nhiên Đinh Khôi  bị đạo quân ở Nam Sách tấn công và đánh bại, sau đó có lẽ sợ Trần Tự Khánh trừng phạt nên Đinh Khôi phản lại ông này. Tự Khánh bắt được và giết chết Đinh Khôi.
Muốn tấn công kinh thành, nhưng thấy mình không đủ quân cũng như tướng, Trần Tự Khánh mang gần như toàn bộ lực lượng của họ Trần ở Thiên Trường về kinh thành để chuẩn bị t ấn công. “Trần Tự Khánh chia quân ra làm hai đạo là thủy quân và lục quân.. Sai Phan Lân và Nguyễn Nộn đem binh ở Quốc Oai theo con đường Bình Nhạc tiến đánh theo Lục Lộ. Trần Tự Khánh tự lãnh binh thuyền đóng ở sông Tha Mạc (14)(còn đọc là Đà Mạc- ND). Thái Tổ (Trần Thừa –NV) ta và Trần Tự Khánh đánh mặt hữu ngạn sông Lô (15). Trần Thủ Độ (16), Trần Hiến Sâm và Nguyễn Ngạnh đánh mặt tả ngạn sông Lô. Vương Lê, Nguyễn Cải đánh cầu Nổi thuộc bến Triều Đông” (ĐVSL). Vậy là Thăng Long bị  bộ binh của Phan Lân và Nguyễn Nộn tấn công phía tây. Đạo thủy quân thứ nhất do Trần Tự Khánh và Trần Thừa (anh của Tự Khánh) tiến đánh phía nam. Đạo thủy quân thứ hai do Trần Thủ Độ, Trần Hiến Sâm và Nguyễn Ngạnh đánh phía đông kinh thành. Đạo thủy quân thứ ba do Vương Lê và Nguyễn Cải đánh phía tây bắc. Gần như tứ phía của thành Thăng Long bị quân họ Trần giáp công,
Phía tây bắc Thăng Long, " Nhà vua tự làm tướng đi đánh Trần Tự Khánh. Gặp lúc có sương mù lớn, trời đất đen tối, người ở trong thuyền không phân biệt được nhau. Nhà vua tiến quân đến Mễ Sở thì gặp quân của Vương Lê và Nguyễn Cải đánh trống reo hò để làm núng lòng quan quân của nhà vua. Rồi quân nhà vua tự nhiên tan vỡ. Quân sĩ đều phải bỏ thuyền, lên bộ mà chạy" (ĐVSL). Đạo thủy binh do chính nhà vua làm chủ tướng không đánh mà tan. Vua Huệ Tông thoát được, nhưng thuyền rồng của nhà vua bị Vương Lê và Nguyễn Cải bắt giữ.
Phía nam Trần Thừa kéo quân đến bến An Duyên, " thì gặp (tướng quân phía nhà vua) Đàm Dĩ Mông và An Nhân Vương (17) lãnh đạo Bắc Giang. Các đạo quân kéo lại, đều đem hết những lính tinh nhuệ ra nghinh chiến. Quân hai bên đều tổn hại" (ĐVSL). Theo như ĐVSL viết thì trận chiến giữa Trần Thừa và đạo quân Bắc Giang là trận lớn nhất, trận này Đàm Dĩ Mông và đạo Bắc Giang bị họ Trần đánh bại.
Phía đông kinh thành, quân họ Trần thắng rất nhanh, " Bọn Trần Thủ Độ, Trần Hiến Sâm (đánh mặt tả ngạn sông Lô- ND) nhân vì thắng trận mới tiến đến đánh bến Từ Đông, lại thắng nữa" (ĐVSL). Trần Thủ Độ là người mà sau này đã ép nhà Lý nhường ngôi cho họ Trần là Trần Cảnh, ông này nổi tiếng trong sử sách là người có nhiều thủ đoạn. Lúc này Thủ  Độ mới được 20 tuổi và đã tỏ ra là một vị tướng xuất sắc.
Phía tây của Thăng Long là trận chiến giữa tướng của Tự Khánh là Phan Lân với người ở vùng Hồng, " Bọn Phan Lân nhân khi đến chợ Dừa, gặp tướng vùng Hồng là Đoàn Cẩm, Võ Hốt đều bị thua phải chạy, vượt sông qua Phù Kiều  thuộc bến (Triều) Đông mà về" (ĐVSL). Theo như đoạn văn trên trong ĐVSL thì người viết nghĩ là Phan Lân đã bị thua trận và bỏ chạy về lại với Trần tự Khánh. Không thấy ĐVSL nói về Nguyễn Nộn, tuy nhiên vì Nguyễn Nộn mới được Trần Tự Khánh nhận làm tướng nên có lẽ ông ta bị đặt dưới quyền của Phan Lân trong trận đánh này.
Thế là bao nhiêu hy vọng và cố gắng của vua Huệ Tông để diệt Trần Tự Khánh đều xuôi theo dòng nước. " Lúc bấy giờ, nhà vua ở trại Trà Đình nghe các đại quân đều thua to mới sợ mà sai đưa xa giá vào trong cung cấm để đón Thái hậu lên thuyền muốn chạy sang Lạng Châu"(ĐVSL) . Tuy thắng trận nhưng Trần Tự Khánh vẫn chưa bắt được thái hậu và vua Huệ Tông, ông ta vẫn còn lo lắng cho sinh mạng của cô em gái. Nhà vua cùng Đàm thái hậu bôn đào qua Thiên Đức Bắc Ninh. Thấy vua muốn đi Lạng châu, Đàm Dĩ Mông can ngăn và muốn dùng lực lượng vùng Hồng của họ Đoàn để chống lại Trần Tự Khánh. "Đàm Dĩ Mông triệu người vùng Hồng. Người vùng Hồng không đến" (ĐVSL). Nhà vua và thái hậu lên đường đi Lạng châu.
Thăng Long lúc này hoàn toàn nằm trong tay họ Trần. Để đề phòng các đạo Bắc Giang và vùng Hồng tấn công, Trần Tự Khánh "Sai tướng soái đi vỗ về các đạo để tập hợp nên các đội binh mới"( ĐVSL), bổ sung những thất thoát vì thương vong trong trận chiến vừa qua, và chia các tướng của ông ta trấn giữ các nơi như sau:
Lại Linh giữ Nghĩa Trụ, Phan Lân giữ Siêu Loại (Bắc Ninh- NV), Nguyễn Nộn giữ Bắc Giang, Trần Thủ Độ giữ Lạng Ải. Trên đường đi Lạng Ải, "Trần Thủ Độ gặp binh của người Hồng là Đoàn Thượng, Đoàn Văn Lôi và Đoàn Khả Như mới cùng nhau giao chiến. Người ở vùng Hồng thua chạy về Bắc" (ĐVSL). Trần Thủ Độ đã giao chiến với những thủ lãnh vùng Hồng nhiều kinh nghiệm về trận mạc là Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi và Trần Thủ Độ đã chiến thắng, chứng tỏ Trần Thủ Độ là một vị tướng có tài.
"Nhà vua nghe Nguyễn Nộn giữ Bắc Giang bèn sai An Thiết tướng là Thân Trường, Thân Cải v.v... đem quân chống cự lại ở cánh đồng Nhuế Duệ. Nhưng tất cả đều bị Nguyễn Nộn giết chết. Nhà vua mới cùng với Thái hậu chạy đi ngụ tại nhà Quan nội hầu là Vương Thượng (18) ở Châu Lạng" (ĐVSL).
(Còn tiếp)

1. Người viết đã dùng chữ " ép" dù ĐVSL không viết thế. Lý do là Đàm thái hậu vì việc Tự Khánh kéo quân về kinh thành mà giết ba người em của vua Huệ Tông, nếu vậy thì làm sao  mà nhà vua  có thể phong tước cho Tự Khánh nếu không bị bắt buộc!
2. Có lẽ Trần Tự Khánh muốn trả mối thù về việc ông cậu của mình là Tô Trung Từ  bị chết về tay vợ chồng công chúa Thiên Cực và Vương Thượng (đã trình bày trong phần trước)
3. Theo dịch giả thì " Tây Dương là khu Cầu Giấy, Hà Nội ngày nay". 
4. Theo dịch giả " Đông Ngạn nay thuộc Bắc Giang"
5. Người đã được Tự Khánh  ra làm con cờ từ trước " Cho người em (trai) của Thái hậu là Đàm Kinh Bang tham dự vào triều" (ĐVSL).
6. Theo như  ghi chú số 9, trang 25 trong ĐVSL, thì Phù Liệt là huyện Thanh Trì, Hà Đông (Nv: phía nam Hà Nội ngày nay)
7. Người viết nghĩ đây là chữ  “là” chứ không phải chữ  “”. Phù Liệt là tên vùng, Phan Thế là tên người
8. Theo như  ghi chú số 1, trang 66 trong ĐVSL, thì cửa Đại Hưng là cửa Nam của Hà Nội.
9. Dịch giả viết chú thích như sau: " Tô thị phải chăng đây là Tô thị, con gái Tô Trung từ và là vợ của Nguyễn Ma La. Nguyên trước kia Ma La bị Nguyễn Trinh giết để cướp Tô thị. Trinh lại bị Tô thị mưu giết". Người viết không nghĩ như thế, mà nghĩ rằng bà họ Tô được nói đến ở đây là mẹ cuả Trần Tự Khánh, chị ruột của Tô Trung Từ.
10. Người viết chưa tra cứu được "Phạm Thị" là ai.
11. Theo như ghi chú của người dịch: “Sách "Việt sử tiêu án" chép, Nguyễn Nộn nguyên là cư sĩ ở chùa Phù Đổng, bắt được vàng và ngọc bích không dâng vua nên có chiếu bắt. Tự Khánh lấy cớ Nộn đương mạnh muốn dùng lực lượng của y, tâu xin tha cho Nộn, cho tòng quân đánh giặc chuộc tội”.
12. Theo như  ghi chú số 3, trang 97 trong ĐVSL, thì Mễ Sở thuộc huyện Đan Phượng tỉnh Hà Tây ngày nay, phía tây Thăng Long
13. Lời tâu của Doãn Tín Dực về Trần Tự Khánh không oan
14. Theo như  ghi chú số 4, trang 91 trong ĐVSL: Đà Mạc hay Tha Mạc, nay là vùng Khoái Châu Hưng Yên
15. Sông Lô là tên gọi  sông Hồng từ trước thời Hậu Lê
16. Nhân vật  này bắt đầu xuất hiện , Trần Thủ Độ lúc này (1213) 20 tuổi (chết năm 1264, thọ 71 tuổi). Vậy Trần Thủ Độ sinh năm 1193.
17. Người viết chưa tra cứu được An Nhân Vương là ai, họ hàng như thế nào với vua Huệ Tông. ĐVSKTT ghi lại tên hai người con trai của vua Cao Tông là thái tử  Sảm và hoàng tử Thầm, con trai vua Anh Tông thì chỉ có tên của hai người được ghi lại là Long Xưởng và Long Trát (Cao Tông). Tuy nhiên ĐVSL đưa ra khá nhiều tên các vị Vương nhà Lý như  Hiển Tín Vương Lý Bát (ĐVSL gọi là Nguyễn  Bát), Huệ Văn Vương (con vua Anh Tông, chú vua Huệ Tông), Nghĩa Tín Vương, Nhân Quốc Vương (Nhân Quốc Vươ ng cùng với hai người con trai thứ sáu và thứ bảy của vua Cao Tông  bị Đàm thái hậu giết).
18. Vương Thượng là chồng của công chúa Thiên Cực. Ông này đã giết Tô Trung Từ là cậu của Trần Tự Khánh.


Nhà Trần khởi nghiệp (Kỳ 6)

Trần Việt Bắc
Kỳ 6
Trần Tự Khánh thao túng triều đình
Lúc này, tháng giêng năm Giáp Tuất (1214), Trần Tự Khánh  coi như đã  làm chủ kinh thành. Binh lực họ Trần hùng hậu nhưng lại thiếu chính nghĩa để an dân. Dùng mũi giáo hay lưỡi kiếm kề cổ người dân bắt họ phải theo mình, thì đầu môi chót lưỡi, người dân phải nghe, nhưng tâm địa không ai phục. Trần Tự Khánh biết điều này và ông ta muốn giả thần phục nhà Lý, dùng nhà Lý như một triều đình bù nhìn để mặc tình thao túng. Vì thế ông ta bèn đi một nước cờ mới:  "Vài ngày sau Trần Tự Khánh cắt tóc sai người dâng cho nhà vua và tâu rõ ý mình rằng là: "Tôi thấy bọn tiểu nhơn ở cạnh vua, chúng che lấp ngăn cản các bậc trung lương, dân tình thì uất ức không biết theo đâu mà chuyển đạt thấu lên trên. Cho nên nhân đó mà (tôi tụ họp) người trong nước khởi binh đánh bọn này, cắt bỏ gốc rể của sự hiểm họa để làm yên lòng dân. Và, đến phận mệnh của vua tôi thì không dám một tí xúc phạm, lại há có cái ý quá ỷ vào việc chăm đánh dẹp đó hay sao! Chẳng ngờ là tôi đã khiến cho xa giá phải lẫn tránh chỗ khác. Tôi tự lượng biết thân tôi. Tội tôi thật đáng muôn chết. Xin bệ hạ hãy tạm nguôi cơn giận mà đưa xa giá trở về kinh sư".  (ĐVSL). Sau đó lại nhờ em của thái hậu là Đàm Kinh Bang  chuẩn bị đón vua Huệ Tông từ Lạng châu về kinh sư. Vua và quần thần muốn về lại kinh thành, nhưng Doãn Tín Dực (1) tâu với nhà vua và thái hậu :  "Kẻ kia từ lâu đã chứa sẵn cái lòng khác, nay muốn bày kế để bắt đấy thôi, chứ ai bảo đón rước đó? Xin bệ hạ hãy nghĩ lại ba lần đã"  (ĐVSL). Thái hậu không chịu về lại kinh thành, nhà vua thấy mẹ mình không muốn về nên muốn cùng thái hậu đi Cổ Lộng (Lạng Châu). Đàm Kinh Bang và một số quan lại cố khuyên nhà vua nhưng vua và thái hậu không nghe. Thế là hầu hết những quan lại cũng như những người hộ giá bỏ trốn, chỉ còn lại quan   "Nội thị Phán thủ là bọn Trần Hân 30 người đều cùng với vua và Thái hậu lên thuyền đi về núi Tam Trĩ (2) "( ĐVSL). Nhà vua, thái hậu và đoàn tùy tùng đi Lạng châu nhưng thấy "thủy thổ bất tiện" nên sau một tháng lại di chuyển sang Nam Sách.
Thấy mưu mô của mình không thành và không nắm được nhà vua trong tay, Trần Tự Khánh nổi giận bèn  "triệu tập các bậc Vương tước và trăm quan để nghị bàn về việc cải lập"  (ĐVSL). Tự Khánh sai người đi đón con của vua Anh Tôn (chú của vua Huệ Tông) là Huệ Văn Vương lập làm vua. Đồng thời để tránh những phản đối của phe ngoại thích; Tự Khánh ra lệnh bắt hết họ hàng của Đàm thái hậu, kể cả Đàm Kinh bang mang về giam tại Mỹ Lộc ( căn cứ địa của họ Trần).   "Tháng 3, Huệ Văn Vương lên ngôi vua ở điện Thiên An. Đổi niên hiệu là Càn Ninh và lấy hiệu là Nguyên Vương"  (ĐVSL).
Lời bàn của người viết:
Tuy Trần Tự Khánh dùng bạo lực để lập nên vua mới là Huệ Văn Vương, nhưng ông vua này đã không được triều đình nhà Lý, toàn dân cũng như các sử gia đời sau công nhận là một triều vua. Vì vua Huệ Tông vẫn còn tại thế, không bị Tự Khánh kiềm toả lúc này và hiện đang là vua chính thức của Đại Việt. Huệ Văn Vương, đối với cái nhìn của các Nho gia thì  ông này chỉ là một phản thần của triều đại nhà Lý. Vì thế không thấy hai bộ chính sử là Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cũng như các bộ sử khác ghi lại, ngoại trừ Đại Việt Sử Lược.
Lịch sử đã lập lại, Trần Tự Khánh đã hành động giống như Tào Tháo thời Tam Quốc. Tào Tháo đã  thao túng nhà Đông Hán là phế Hán Linh Đế  (Lưu Hoành, 156-189) và tự ý lập Lưu Hiệp lên làm Hiến Đế (189- 220). Tuy nhiên có một điểm hơi khác là Tào Tháo nắm cả Linh Đế và Hiến Đế trong tay, còn Trần Tự Khánh chỉ nắm được Huệ Văn Vương mà không nắm được Huệ Tông, vì thế Hán Hiến Đế được công nhận là một ông vua thực thụ của Trung Quốc còn Huệ Văn Vương chỉ là một ông vua "hờ", được dựng nên bởi một kẻ loạn tặc và hầu như không được ai biết tới.
 Trần Tự Khánh bị các bộ tướng phản.
Trần Tự Khánh công khai làm chuyện phản nghịch, các tướng dưới quyền của Trần Tự Khánh  chống lại ông ta. Tháng 4, cùng năm (1214), Tại Cam Giá (3), Phan Cụ phản, nhưng bị Tự Khánh bắt được và đem về giam ở Mỹ Lộc. Đỗ Bị cũng là một viên tướng của Tự Khánh đóng ở Cam Giá làm phản, Trần Tự Khánh sai Phan Lân đang đóng ở Siêu Loại (Bắc Ninh) đi bắt Đỗ Bị, nhưng bị thua. Tự Khánh sai Lại Linh ở Nghĩa Trụ tới cứu Phan Lân, Lại Linh cũng thua nữa.  “Thái Tổ (NV: Trần Thừa) thấy hai vị tướng quân đều thua bèn tự làm tướng đánh Đỗ Bị, nhưng đánh không nổi phải rút lui”  (ĐVSL).
Phan Lân và Lại Linh là hai tướng thuộc loại khá của Trần Tự Khánh, Trần Thừa là anh của Tự Khánh, những người này đã có khá nhiều kinh nghiệm chiến trường mà vẫn bị Đỗ Bị đánh bại, chứng tỏ Đỗ Bị là một vị tướng có tài. Tuy nhiên sau cuộc binh biến này, không thấy ĐVSL hay các sử liệu khác viết về Đỗ Bị.
Nguyễn Nộn lúc này là tướng dưới quyền của Trần Tự Khánh đang cai quản Bắc Giang, vùng núi Đông Cứu (4) thuộc Bắc Giang bị người ở vùng Hồng là Đoàn Nhuyễn mang quân tấn công  "đốt phá nhà cửa, giết hại sinh vật, bắt cướp gà, chó gần hết"  (ĐVSL). Nguyễn Nộn mang quân tới đánh Đoàn Nhuyễn, Nhuyễn bị Nộn giết nhưng Nộn lại bị phục binh của họ Đoàn là Đoàn Nghi đánh bị thương nên phải rút quân. Dù bị thương nhưng thấy các bộ tướng của T ự Khánh nổi lên chống lại ông này, Nguyễn Nộn cũng muốn tìm hướng đi riêng cho mình - trở thành bá chủ một cõi, nên Nguyễn Nộn thông đồng với Nghĩa Tín Vương phản Trần Tự Khánh. Nghĩa Tín Vương bị Tự Khánh bắt giết. Đại tướng của Khánh là  "Phan Lân muốn cất binh hưởng ứng thao Nguyễn Nộn. Âm mưu bị tiết lộ, Trần Tự Khánh chém Phan Lân ở châu Đại Thông (5) "  (ĐVSL).
Trần Tự Khánh tàn phá Thăng Long
Trần Tự Khánh thấy các bộ tướng thay phiên nhau phản mình, bèn như nổi khùng và có những hành động tồi tệ. Đối với Nguyễn Nộn, Tự Khánh trả thù ông này một cách bỉ ổi, thấy  "Nguyễn Nộn ở Bắc Giang làm phản. Trần Tự Khánh nhân đó mà đi về nhà vợ y"(6)  (ĐVSL), Tự Khánh đã đào sâu thêm cái hố thù hận không thể hàn gắn giữa họ Trần và Nguyễn Nộn. Sau đó Tự Khánh ,  "đón Nguyễn Vương (7)  đi đến hành cung Lị Nhân . Rồi sai Lại Linh  đốt cung thất ở kinh đô, gồm có 19 sở "  (ĐVSL). Nguyễn Nộn mang quân về kinh đô,  "Tháng 6, Trần Tự Khánh đánh Nguyễn Nộn ở cung Thánh Nghi, rồi đốt cung ấy".  (ĐVSL). Không thấy tác giả của ĐVSL nó về kết qủa của trận giao tranh giữa Nguyễn Nộn và Tự Khánh, nhưng người viết phỏng đoán là Nguyễn Nộn thua trận và kéo quân về lại Bắc Giang.
Thấy lực lượng của Tự Khánh đã yếu vì bị các bộ tướng phản, vua Huệ Tông và thái hậu tìm hậu thuẫn mới là Nguyễn Nộn,  "phong cho tướng quân ở đạo Bắc Giang là Nguyễn Nộn tước Hầu"  (ĐVSL), và dùng lực lượng của Nộn để bảo vệ triều đình về lại Thăng Long. "Đến đại nội, bà Thái hậu ngầm hạ chiếu cho tướng quân ở đạo Phù Nhạc là Phan Thế dụ Ô Kim hầu là Nguyễn Bát (8)  để giết đi. Nhưng rồi việc không xong chỉ đánh Bát bị thương"  (ĐVSL).
Trần Tự Khánh thấy vua và triều đình về lại Thăng Long, ông này vẫn chưa bỏ ý định nắm toàn bộ triều đình nhà Lý trong tay, dù đã lập vua mới là Huệ Văn Vương.  "Trần Tự Khánh sai Đàm Bật dâng thổ vật. …Sai Nguyễn Ngạnh đưa Đàm Kinh Bang về kinh sư tâu rõ rằng mình chẳng có ý gì khác. Nhà vua nghe Nguyễn Ngạnh đến lại càng sợ mới sang nhà Doãn Bá ở ngõ Phiên Cầm. Nguyễn Ngạnh đi rồi nhà vua mới trở về cung" (ĐVSL) . Không được như ý nên  "Trần Tự Khánh dẫn binh xâm phạm cửa khuyết"  (ĐVSL). Vua và thái hậu cố gắng tập họp được quân để chống giữ, nhưng cũng chẳng làm được gì, chỉ đủ sức tạm cản trở để chạy khỏi kinh thành và không bị Trần Tự Khánh bắt.  " Ngày đó Trần Tự Khánh thả quân sĩ đi cướp lấy các tài vật trong phủ của nhà vua. Rồi lại đốt phá gần hết cung thất và nhà dân ở trong kinh thành "  (ĐVSL). Thế là gần như toàn bộ  thành Thăng Long bị Trần Tự Khánh phá hủy, đến độ khi  "nhà vua cùng với Thái hậu trở về kinh sư thấy  cung thất bị thiêu hủy hư hỏng hết  cả mới trọ lại ở đền Chúa Thánh bên cạnh cầu Thái Hòa.  Nhà vua sai dựng ngôi nhà tranh để ở "  (ĐVSL) và hạ chiếu kêu gọi các đạo quân khắp nơi đánh Trần Tự Khánh.
Lời bàn của người viết :
Qua những sử liệu trong ĐVSL thì toàn bộ cung thất nhà Lý tại Thăng Long đã bị phá huỷ bởi Trần Tự Khánh. Bài chiếu của vua Huệ Tông viết :  "Trần Tự Khánh tụ tập đảng tặc hung bạo cướp phá trộm cắp chốn kinh sư. Dưới nước, trên cạn đều có quân tiến đánh làm phương hại đến tông miếu xã tắc mà trong mùa đông qua, cái khí thế mạnh lại càng bốc mạnh hơn. Trần Tự Khánh đốc xuất lũ buông tuồng tham tàn bạo ngược. Chúng cướp bóc tài vật của ta. Chúng đốt sạch cung thất của ta. Cho đến nỗi các khu xóm ở kinh thành hóa thành đống tro tàn"  (ĐVSL) .
Mới đây (2003), phái đoàn khảo cổ Việt Nam khai quật cổ thành Thăng Long và nói là tìm được hàng triệu di chỉ thời Lý, Trần. Người viết lạm nghĩ rằng đây chỉ còn lại những di chỉ đời Trần (từ đầu thế kỷ 13) và không còn di chỉ bắt đầu từ thời Lý  (từ đầu thế kỷ 11), nếu có thì có lẽ còn lại rất ít hoặc là những di chỉ các đời trước (thành Đại La) đã bị chôn vùi dưới thành Thăng Long đời Lý. Người viết đưa ra nhận xét thô thiển để bàn luận, hầu được hiểu biết thêm
.
Trần Tự Khánh biết là các đạo quân sắp đánh mình, bèn  "phân chia cho các tướng sĩ của y đóng quân ở Cửu Cao và Cửu Ông (9) để ngăn ngừa Nguyễn Nộn. Rồi sai tướng quân ở Khoái Lộ là Nguyễn Đường và Nguyễn Giai lại giữ dân đất ấy. Nguyễn Đường và Nguyễn Giai lại cùng với Nguyễn Nộn thông đồng mưu sự với nhau để đánh Trần Tự Khánh"  (ĐVSL). Bị hai bộ tướng là Đường và Giai phản, Tự Khánh "sai Lại Linh giữ An Duyên Phù Liệt (10) " (ĐVSL). Để lấy lòng Nguyễn Nộn và dùng ông này làm một viên tướng bảo vệ mình, vua Cao Tông phong Nguyễn Nộn từ tước Hầu (phong Hầu cho Nộn tháng 6, 1214) lên tước Vương (tháng 2, 1215). Sau đó nhà vua sai quân (?) (11) đánh Lại Linh, Lại Linh thua.
Thấy tướng của mình người thì phản, kẻ bị thua, Tự Khánh "giận cá chém thớt" mang quân  "đánh làng Khoái, san bằng làng nầy"  (ĐVSL).Rồi kéo quân đi đánh Nguyễn Nộn, Nguyễn Đường, Nguyễn Giai. Đường và Giai thua trận, Tự Khánh chấp nhận cho hai bộ tướng cũ của mình đầu hàng. Có lẽ Tự Khánh thấy là  mình đã mất khá nhiều bộ tướng nên không giết hai ông này, Nguyễn Đường còn được Tự Khánh lấy lòng một cách đặc biệt: gả em gái là Trần Tam Nương cho ông này.Tự Khánh sai các tướng của mình đắp lũy Hoàng, An Giá, Công Chúa để phòng Nguyễn Nộn và các đạo quân khác. Nộn mang quân tấn công Đường và Giai ở lũy An Lợi, Đường và Giai thất trận, Trần Tự Khánh mang quân đi cứu và thắng được Nguyễn Nộn.
Nguyễn Nộn thua trận và kéo quân về Bắc Giang, thế là chung quanh vua Huệ Tông không có một đội quân nào có thể bảo vệ được triều đình. Nhà vua thấy nhà Lý đang từ từ lọt vào tay họ  Trần, quá chán nản.  "Nhà vua bảo quần thần rằng: "Trẫm muốn nhường ngôi, các khanh thấy như thế nào?" Quần thần đều ứa lệ mà ngăn cản vua. Nhà vua không nghe mới cùng với Thái hậu lấy dao cắt tóc"  (ĐVSL).  Không thấy ĐVSL nói là nhà vua muốn nhường ngôi cho ai lúc này. Vua Huệ Tông không có con trai, có được mấy người em (khác mẹ ) thì bị mẹ mình là thái hậu giết chết. Vậy nhà vua muốn nhường ngôi cho Huệ Văn Vương, người mà Trần Tự Khánh tự ý lập làm vua? Hay  Ô Kim Hầu Lý Bát (sau này được phong Hiển Tín Vương) hay một hoàng thân  nào khác (12) ? Đây là lần đầu vua Huệ Tông chán ngán thế sự và có ý muốn thí phát, về sau này dưới sự kềm kẹp và uy hiếp của họ Trần (Thủ Độ) , nhà vua đã nhường ngôi cho con gái và bỏ đi tu.  Một lần nữa nhà vua lại phải bôn đào:  "Ngày ấy nhà vua từ dinh Thái Hòa đi đến nhà của Trương Canh và Đặng Lão rồi cho xa giá trở về nhà của nội Ký Ban là Đỗ An ở trong ngõ Chỉ Tác thuộc vùng cầu Tây Dương (13) "   (ĐVSL).
Trần Tự Khánh vẫn chưa giữ được vua Huệ Tông trong tay và hành động càng lúc càng càn rỡ :  "Mùa thu, tháng 7, Trần Tự Khánh đốt cung Động Nhân. Nhà vua sai rước thần chủ Thái Hậu Linh Nhân (14) về đền Chúc Thánh"  (ĐVSL). Rồi Tự Khánh mang quân đánh Đại Hoàng(15), tại đây em rể của Khánh là bộ tướng Nguyễn Đường bị chết đuối.
Trần Tự Khánh phò vua Huệ Tông.
Từ tháng 12, năm1211, khi Trần Tự Khánh kéo quân về kinh đô tới tháng 7, năm 1215, gần 4 năm trời Trần Tự Khánh hoành hành ở Thăng Long, tàn phá từ cung điện nhà Lý tới gia cư của người dân tại đây, biết bao đau thương và tang tóc cho vùng này. Người viết không thấy các bộ sử lớn (ĐVSKTT, VSKĐTGCM) của nước Việt ghi lại, nhưng những hành vi của Trần Tự Khánh đã được ĐVSL chép lại rõ ràng (cách hành văn cũng như sự sắp xếp có vẻ khó đọc theo lối văn cổ, người viết chỉ xếp đặt lại theo thiển ý riêng).
Sau 4 tháng, từ tháng 7 tới tháng 11 năm 1215, không có những biến chuyển lớn nào xảy ra, Trần Tự Khánh như "hồi tâm" (16) khi thấy vua Huệ Tông và thái hậu đã có vẻ như không muốn rời khỏi kinh thành :  "Tháng 11, Trần Tự Khánh đưa trả cái mũ Bình Thiên. Tháng chạp, dựng ngôi điện bằng cỏ ở khu vườn nhà của Đỗ An. … Tháng giêng, (1216)  nhà vua cùng với Thái Hậu  ngự ở thảo điện (điện bằng cỏ-ND) để thị triều. Trần Tự Khánh trả lại cái ghế bằng vàng"  (ĐVSL).
Tháng giêng năm 1216, dù đang ở kinh đô, nhưng vua Huệ Tông cảm thấy khó có thể bảo vệ ngôi vua của mình và hình nhưđã có ý định muốn về với Trần Tự Khánh:   "Nhà vua sai bắt kẻ trộm ở ngõ Cơ Xá. Những người đi bắt ấy bị tướng quân là Đỗ Ất người đất Cảo đánh. Nhà vua sai người đi triệu Đỗ Ất về. Ất không nghe theo. Vua sai Hiển Tín Vương là Nguyễn Bát đánh Ất. Rốt cuộc Ất cũng không phục. Tháng 5, tướng quân Đỗ Nhuế người đất Cảo đánh nhà vua. Ngày Mậu Thìn, vua đi thăm ngoài trại, nhân đó sai sứ xin binh của Trần Tự Khánh để đánh Đỗ  Nhuế. Đỗ Nhuế chạy về với Nguyễn Nộn. Ngày Kỷ Tỵ, vua đày Liệt hầu Đỗ Nhuế, bắt làm Cảo giáp"  (ĐVSL)
Vua Huệ Tông cuối cùng đã phải về với phe Trần Tự Khánh (có lẽ do cô em gái của Tự Khánh là Nguyên phi họ Trần dụ).  "Ngày Giáp Thìn, nhà vua cùng với phu nhân là Trần thị, ban đêm sang trại quân Thuận Lưu để theo về với Trần Khánh (17). Ngày hôm sau nhà vua gặp viên tướng của ngài là Vương Lê đem thuyền đến đón. Lúc bấy giờ Thái hậu và con của nhà vua là Công chúa đều lẫn tránh ở Ô Kim. Trần Tự Khánh thấy nhà vua thì mừng rỡ lắm. Các tướng sĩ đều đánh trống, nhảy múa hoan hô nhà vua. Từ đó nhà vua cùng với Trần Tự Khánh có ý cương quyết đánh Vương tước ở Bắc Giang là Nguyễn Nộn, Hiển Tín Vương là Nguyễn Bát (18) cùng người vùng Hồng là Đoàn Văn Lôi, và người Qui Hóa là Hà Cao v.v..."  (ĐVSL).
Vua Huệ Tông đi một nước cờ mới là dùng Trần Tự Khánh để dẹp các lực lượng khác với hy vọng duy trì sự nghiệp của họ Lý. Nhà vua dám quyết định vì không có thái hậu bên cạnh (bà này và hai công chúa con vua Huệ Tông đang ở tại Bắc Giang). Lúc này, tại Thăng Long và vùng kế cận có quân của Nguyễn Nộn, Nguyễn (Lý) Bát và quân của Hà Cao (phiá tây bắc Thăng Long). Hiển Tín vương Lý Bát đầu hàng, tuy nhiên chỉ 3 tháng sau ông này phản lại nhà vua và Trần Tự Khánh.
Nguyễn Nộn ở Bắc Giang; thấy Trần Tự Khánh được vua Huệ Tông trong tay, bèn hợp với Hà Cao kéo quân đánh chiếm vùng phía tây thành Thăng Long   "Thái hậu đến An Xưởng. Lúc bấy giờ Nguyễn Nộn và Hà Cao lấy mệnh lệnh của Thái hậu  đánh Từ Liêm. Các ấp ở đó đều đánh đổ hết cả "  (ĐVSL).
Thấy vua và triều đình nhà Lý thuận với mình  "Trần Tự Khánh dựng điện cỏ ở Tây Phù Liệt, khuôn mẫu của điện nhất nhất đều bắt chước theo như ở trong đại nội(19) (ĐVSL) để vua Huệ Tông lâm triều, rồi  "sai Trần Tự Khánh đánh Nguyễn Nộn.  Nhà vua hạ chiếu đày Nguyễn Nộn làm lính thường"  ( ĐVSL). Sau đó nhà vua phong chức tước một loạt cho họ Trần và các bộ tướng:
Trần Thừa được phong tước Liệt hầu, làm Nội thị phán thủ. Khi có lễ tiệc lớn được cho ngồi dự tại điện Thiên An.
Trần Tự Khánh được phong chức Thái úy, những lúc triều bái không phải xưng tên.
Trần Liễu con Trần Thừa làm Quan nội hầu.
Trần Hải con Trần Tự Khánh tước Vương.
Phùng Tá  Chu là " quan văn " được phong tước Quan nội hầu, chức Chiêu Thảo sứ.
Lại Linh được phong tước Quan nội hầu.
Họ Trần giúp vua Huệ Tông dẹp các loạn quân
Anh em họ Trần giờ đây đã thật sự trở thành các tướng của triều đình nhà Lý . Tháng 4 năm 1217, Trần Thừa được cử đi đánh Nguyễn Nộn, ông này chia quân ra làm 6 đạo tiến về phủ Từ Liêm để tấn công Nguyễn Nộn. Được tin sắp bị tấn công, Nộn ra tay trước; bất ngờ mang quân đánh Phạm Ân, vây Ân ở Lãnh Kinh và đánh úp Ải Đạo (20). Trần Thừa kéo quân đến đánh, Nguyễn Nộn thua và rút về lại Bắc Giang.  Đoàn Thượng ở vùng Hồng biết là mình khó chống nổi anh em họ Trần đang theo chiếu chỉ của vua Huệ Tông để dẹp loạn lạc, nên Thượng ra hàng nhà Lý. Đoàn Thượng được vua Huệ Tông phong tước Vương (đã được nhà vua phong tước Hầu khi Đoàn Thượng mang quân về kinh thành lần trước). Thế là vùng Hồng được tạm yên.
Tháng 5 năm 1217,  không phải lo về họ Đoàn ở vùng Hồng và Nguyễn Nộn thì mới thua trận,  "Trần Tự Khánh dẫn binh đánh Chân Na thuộc Phong Châu  (21) . Xứ ấy đều bị đánh tan hoang cả. Ngày Đinh Mão, các thuộc ấp ở Phong Châu đều ra hàng.Thái úy lại dẫn quân đánh Hiển Tín Vương Nguyễn (Lý) Bát  (22) và hương ấp đều được bình yên"  (ĐVSL). Nguyễn Nộn rút về Bắc Giang, Hà Cao kéo quân về đóng ở Qui Hóa. Vậy là phía tây kinh đô Thăng Long loạn lạc đã được dẹp yên, tuy nhiên để tránh sự nổi loạn ở đây sau này, nhà vua phong "cho quan Minh tự tên là Bạch Lãng, người Sơn Lão ở sách Ma Luân làm Liệt hầu"  (ĐVSL).
Nỗi lo lắng của anh em họ Trần là Nguyễn Nộn, ông này đã có mối thù với Tự Khánh (đã được trình bày trong phần trước) nên không thể hoà hay hàng, khi Trần Tự Khánh đang làm tướng giúp nhà Lý. Để giải trừ mối lo cho họ Trần, Trần Thừa tung toàn bộ lực lượng  "bao vây Nguyễn Nộn ở Bắc Giang, , đồng thời sai mở đê để đưa nước vào các làng ấp . Lại Linh theo cái thế nước ấy mà đánh. Quân của Nguyễn Nộn thua to. Vợ con của Nguyễn Nộn đều bị bắt. Nguyễn Nộn đem hơn một trăm người lui về giữ Phù Ninh (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh- ND) " (ĐVSL).  Quân của Nguyễn Nộn gần như tiêu tán hết, tuy nhiên là một viên tướng có khí phách, ông này đã nhanh chóng tu bổ lại lực lượng và chiếm ấp Bình Cảo(23) làm cứ địa. Biết Nguyễn Nộn chưa chết, dù đã bị Trần Thừa đánh bại,  Trần Tự Khánh nhất định bằng mọi giá phải diệt Nguyễn Nộn. Trên đường mang quân đi đánh Nam Sách, Tự Khánh mang hai bộ tướng là Nguyễn Cải và Nguyễn Mộc theo đường tắt đến tấn công  Bình Cảo, nhưng Nguyễn Nộn đã mang quân sang động An Đinh, Tự Khánh đánh động này nhưng không thắng.
Sau đó theo ĐVSL thì Nguyễn Nộn bị bệnh và chết năm 1219, các tướng của Nguyễn Nộn đầu hàng :  "Ngày Canh Ngọ, tướng của Nguyễn Nộn là Phí Thám đưa Thái hậu và các người con của vua là bọn Công chúa ra hàng nơi Thái úy. Đại tướng của Nguyễn Nộn là Nguyễn Doanh chạy trốn trong khu rừng hiểm trở ở Thị Hàng hơn năm ngày, rồi tìm cách tự cứu lấy mình, nhưng cái Ké đã cùng bèn đem con doanh mã (ngựa hay có tiếng) ra dâng mà xin hàng. Bắc Giang được yên”   (ĐVSL).
ĐVSL nói về Nguyễn Nộn khác với hai bộ chính sử là ĐVSKTT, và KĐTGCM cũng như Việt Sử Tiêu Án và Đại Việt Sử Ký Tiền Biên của Ngô Thời Sỹ. Các bộ sử này đều viết là Nguyễn Nộn vẫn còn sống cho tới khi nhà Trần lên ngôi. Nguyễn Nộn đánh thắng Đoàn Thượng ở vùng Hồng, giết ông này, Trần Thủ Độ đã ra công đánh dẹp nhưng không có kết quả. Nguyễn Nộn đã tạo nên một lực lượng đáng ngại cho nhà Trần, đến độ họ Trần phải gả công chúa cho Nộn, tuy nhiên ông này vẫn không hàng, chỉ khi Nguyễn Nộn bị bệnh chết (năm 1229), nhà Trần mới hoàn toàn hết lo lắng (đã được trình bày trong phần trước trong tiết mục "Sứ quân" Nguyễn Nộn). Từ đây về sau người viết xin theo các bộ sử vừa nêu trên khi nói về Nguyễn Nộn.
Về lực lượng tại Nam Sách:  "Tướng Nam Sách là Hoàng Cá lìa trần, bọn Nguyễn Lợi đều ra hàng. Nam Sách được yên"  (ĐVSL).
Lực lượng vùng Hồng dù đã hàng nhà vua nhưng cũng vẫn là mối lo cho họ Trần.  "Đoàn Văn Lôi là người dũng cảm có trí lược, có tài năng và được lòng dân chúng, cho nên người vùng Hồng, đa số theo về với ông"  (ĐVSL). Để bớt lo lắng, Trần Tự Khánh gả em gái của ông là Trần Tam Nương cho Đoàn Văn Lôi để kết thân với họ Đoàn (24). Từ thời điểm này trở đi, không thấy sử liệu nào nó tới binh biến giữa họ Trần với họ Đoàn tới khi nhà Trần lên ngôi.
Họ Trần đã tạm dẹp yên được các địch thủ đáng ngại, ngoại trừ đám quân của Hà Cao đóng tại Qui Hoá, phía bắc sông Hồng (khúc sông này được gọi là Qui Hóa giang). Hà Cao có một lực lượng quân sự tương đối mạnh. Để chắc thắng, quân họ Trần chia làm hai đạo.  "Thái úy và Thái Tổ theo đường sông Quy Hóa. Lại Linh và Phan Cụ theo đường sông Tuyên Quang  (25), quân của Hà Cao đều tiến đánh, Phan Cụ bị hãm ở nơi cái đầm và bị tướng của Cao là Nguyễn Nải chém. Hà Cao nghe quân của Thái úy bốn mặt bao vây mới vội vàng cùng với vợ và con của ông đều thắt cổ mà chết. Từ đó Lộ Thượng Nguyên (26), sông Tam Đái (27)  v.v... đều được yên ổn cả"  (ĐVSL). Ngoại trừ họ Đoàn ở vùng Hồng đã hàng và kết thân với họ Trần, chỉ còn lại hai lực lượng không đáng kể của Nguyễn Nộn (sẽ khôi phục lại sau này) và đám quân Sơn Lão (bị Tự Khánh dẹp tan tháng giêng năm sau 1223) , họ Trần coi như đã dẹp xong các loạn lạc và chuẩn bị âm mưu thay nhà Lý làm vua Đại Việt.
Để dọn sạch các chướng ngại cho âm mưu, Trần Tự Khánh đi thêm một bước nữa là giết các võ tướng đã từng theo mình xông pha trận mạc. Từ lúc Tự Khánh kéo quân về Thăng Long, mang theo hai đại tướng là Phan Lân và Lại Linh cùng những viên tì tướng khác. Phan Lân phản và đã bị Tự Khánh giết (tháng 4, 1214). Nay không thấy nói vì lý do gì,  "Tháng giêng (NV:1222), Thái úy Trần Tự Khánh sai người bắt Bảo Tín hầu là Lại Linh. Lại Linh tự thắt cổ mà chết"  (ĐVSL).  Thế là hầu như các võ tướng còn lại hầu hết là họ Trần như Trần Thừa, Trần Thủ Độ, Trần Hiến Sâm, Trần Báo. Một biến cố đáng ngờ xảy ra: ông vua do Trần Tự Khánh lập nên là con vua Anh Tông khi vua Huệ Tông không ở kinh thành là  "Huệ Văn Vương tức là Nguyễn (NV: L ý) Vương từ trần, nhà vua cho bãi triều năm ngày, ăn chay ba ngày"  (ĐVSL). Thế là các vương hầu nhà Lý chẳng còn ai, chung quanh vua Huệ Tông chỉ có toàn người họ Trần, nhà Lý coi như đã cáo chung.
Nội bộ đã tạm yên nhưng những de dọa từ phương bắc là Trung Hoa và từ phương nam là Chiêm thành lúc này như thế nào?
Phương bắc: đời vua Tống Gia Định thứ 15, 1222, nhà Nam Tống ( từ sông Dương Tử tử trở về phía nam) đã suy yếu rất nhiều. Phía bắc đã bị Kim chiếm, nhà Tống đang lo khôi phục lại đất này. Mông Cổ đã có chiến tranh với Kim và chiếm kinh đô của Kim là Tây Kinh năm 1210. Nhà Nam Tống đang lo sự bành trướng của Mông Cổ, dù năm 1234 Tống liên minh với Mông Cổ diệt Kim. Vì vậy sự đe dọa của phương bắc đã không là mối lo của Đại Việt.
Phương nam: tháng 10, 1218,  "Chiêm Thành và Chân Lạp đến cướp châu Nghệ An, Lý Bất Nhiễm đánh tan được, thăng tước hầu, ban thực ấp 7.500 hộ, thực phong 1.500  hộ"  (ĐVSKTT).
Từ lúc này cho đến khi nhà Trần làm vua Đại Việt, Chiêm Thành không mang quân quấy nhiễu.
Phần 4: Nhà Trần thay nhà Lý
Sau khi giúp vua Huệ Tông dẹp xong loạn lạc, họ Trần coi như làm chủ Đại Việt. Trần Tự Khánh đã được vua Huệ Tông phong đến chức Phụ quốc thái úy (28) là chức cực phẩm. Tuy nhiên chuyện bất ngờ xảy ra:  "Tháng chạp (NV: 1223), ngày Kỷ Mão. Phụ quốc Thái úy Trần Tự Khánh lìa trần trong ngôi nhà ở Phù Liệt. Nhà vua cùng Thái hậu đến viếng tang rồi khóc hết sức thảm (29). Trần Tự Khánh được đặt cho tên thụy là Kiến Quốc Vương"  (ĐVSL). Trần Tự Khánh vùng vẫy vùng châu thổ sông Hồng 14 năm, làm giặc 7 năm (1209-1216), phò vua Huệ Tông 7 năm, "đánh đông dẹp bắc", những loạn lạc gần như tạm yên. Trần Tự Khánh chết, anh là Trần Thừa nắm trọn binh quyền họ Trần, thừa hưởng những thành công của Tự Khánh.
Tháng giêng năm 1226,  vua Huệ Tông   "cho Thái Tổ (Trần Thừa) làm Phụ quốc Thái úy,  làm Nội thị Phán Thủ, cất cử quan Thượng phẩm hầu là Trần Báo làm tước Vương và thụy hiệu  (30) là Hiển Thành" (ĐVSL). "Trần Tự Khánh chết, truy phong làm Kiến Quốc Đại Vương; lấy Trần Thừa làm Phụ quốc Thái uý, khi vào chầu không xưng tên" (ĐVSKTT).
 Sức khỏe của vua Huệ Tông và việc Chiêu Thánh công chúa lên ngôi  
Vua Huệ Tông và hoàng hậu họ Trần không sinh được hoàng tử nào mà chỉ có được hai công chúa là Thuận Thiên (31) (sinh năm 1216) và Chiêu Thánh (Lý Phật Kim, sinh năm 1218).  "Bính Tý, [Kiến Gia] năm thứ 6 (1216) ….Vua có bệnh trúng phong, chữa thuốc không khỏi mà chưa có thái tử, trong cung chỉ sinh công chúa mà thôi.  …. (1217) vua dần dần phát điên, có khi tự xưng là Thiên tướng giáng, tay cầm giáo và mộc, cắm cờ nhỏ vào búi tóc, đùa múa từ sớm đến chiều không nghỉ, khi thôi đùa nghịch thì đổ mồ hôi, nóng bức khát nước, uống rượu ngủ li bì đến hôm sau mới tỉnh. Chính sự không quyết đoán, giao phó cả cho Trần Tự Khánh. Quyền lớn trong nước dần dần về tay kẻ khác.(ĐVSKTT). Vậy là từ khi chưa về với Trần Tự Khánh (1216) nhà vua đã không khỏe từ thể xác tới tinh thần.
Từ bé tới khi lên làm vua lúc 17 tuổi (vua Huệ Tông sinh năm 1194, lên ngôi 1211), nhà vua đã  quen sống trên nhung lụa nhưng tháng giêng năm 1214 (bôn tẩu khỏi kinh thành) tới tháng giêng 1216 (về theo Trần Tự Khánh), đúng hai năm, vua Huệ Tông đã  phải lang thang từ kinh thành cho tới Lạng Châu là miền rừng thiêng nước độc. Thật là  khó mà tránh được bệnh tật  cho một người không quen với hoàn cảnh này. Làm vua thì bị mẹ và đám ngoại thích họ Đàm kềm kẹp và bị Trần Tự Khánh thao túng. Rồi lại phải chứng kiến cảnh cực kỳ đau lòng là mẹ ruột giết những em của mình mà không làm gì được. Nhà vua còn phải chứng kiến cảnh chém giết triền miên, cung điện bị tàn phá, dân chúng điêu linh. Bản thân nhà vua, tự cầm quân mấy lần nhưng đều thất trận, có lần sắp bị vong mạng vì đám giặc cỏ. Việc này ảnh hưởng tới tâm thần nhà vua rất nhiều và nhà vua đã  "dần dần phát điên".
ĐVSL không nói rõ về sức khỏe của vua Huệ Tông, chỉ viết là nhà vua khi còn bôn ba ngoài kinh thành đã cắt tóc (“thí phát”, các vua nhà Lý rất trọng Phật Giáo) và có ý nhường ngôi vua, nhưng không nói rõ là muốn nhường ngôi cho ai. Lúc này, năm 1224,  khi lúc mới được 30 tuổi, Huệ Tông đã chán ngán thế sự. Người con gái thứ hai là Chiêu Thánh công chúa, 7 tuổi, được nhà vua rất thương yêu nên nhường ngôi cho cô công chúa này:  "Tháng 6, nhà vua nhường ngôi cho con thứ hai là Công chúa Chiêu Thánh. Chiêu Thánh lên ngôi lấy thụy hiệu là Chiêu Vương, tôn vua Huệ Tông làm Thái Thượng Vương, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo"  (ĐVSL). Sau khi nhường ngôi vua Huệ Tông đi tu ở chùa Chân Giáo, tuy nhiên vẫn theo dõi những diễn biến trong triều đình .
Biến cố này được ĐVSKTT ghi lại như sau:  "Giáp Thân, [Kiến Gia] năm thứ 14 [1224] , (Từ tháng 10 về sau là niên hiệu cuả Chiêu Hoàng Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1; Tống Gia Định năm thứ 17). Bệnh của vua ngày càng tăng mà không có con trai để nối nghiệp lớn, các công chúa đều được chia các lộ làm ấp thang mộc, uỷ nhiệm cho một mình chỉ huy sứ Trần Thủ Độ quản lĩnh các quân điện tiền hộ vệ cấm đình.  Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu lập công chúa Chiêu Thánh làm Hoàng thái tử để truyền ngôi cho. Vua xuất gia ở chùa Chân Giáo trong đại nội. Chiêu Thánh lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1, tôn hiệu là Chiêu  Hoàng ".
Một cô bé 7 tuổi lên ngôi vua, biết đổi niên hiệu, lấy tôn hiệu? Bắt buộc phải có bàn tay đạo diễn nhúng vào. Đương nhiên là họ Trần làm đạo diễn, nhưng người nào là đạo diễn chính, ai là  đạo diễn phụ và ai là người chủ xướng trong biến cố này?
Vai trò của Trần Thủ Độ
Trần Thủ Độ là em con ông chú của Trần Thừa và Trần Tự Khánh. Trần Thủ Độ là một võ tướng có tài dưới quyền Tự Khánh. Lần đầu xuất trận lúc khoảng hai mươi tuổi (Thủ Độ sinh năm 1193), khi theo Tự Khánh đánh kinh đô Thăng Long (năm 1213) và thắng trận, sau đó lại đánh thắng hai nhân vật cự phách ở vùng Hồng là Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi trong lúc trên đường đi trấn nhậm Lạng ải.
Năm 1224, Trần Thủ Độ được triệu về Thăng Long  làm Điện tiền chỉ huy sứ (lúc 31 tuổi), chỉ huy lực lượng bảo vệ nội cung, đây là một chức vụ rất quan trọng, có thể duy trì hay lật đổ một triều đại nếu có hậu thuẫn bên ngoài. Vua Thái Tổ nhà Lý là Lý Công Uẩn đã giữ chức vụ này và đã thay thế nhà Tiền Lê, làm vua đầu tiên của nhà Lý. Trần Thủ Độ với chức vụ Điện tiền chỉ huy sứ muốn bắt chước việc này để nhà Trần thay nhà Lý.
(Người viết xin sao lại những đoạn trích trong hai bộ sử là ĐVSL và ĐVSKTT song song, để những sử liệu này bổ túc lẫn nhau, ngõ hầu có thể tìm hiểu rõ hơn về giai đoạn biến chuyển quan trọng này)
Một năm sau khi Lý Chiêu Hoàng lên làm vua, Trần Thủ Độ bắt đầu“đạo diễn” cảnh thay đổi triều đại. Thủ Độ cho người "viết dùm" Chiêu Hoàng tờ chiếu  "Ất Dậu, Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 2 [1125]…. mùa đôngtháng 10 , xuống chiếu tuyển con em của quan viên trong ngoài sung vào các sắc dịch trong nội, như lục hỏa thị cung ngoại, Chi hậu, Nội nhân thị nội  (32), ngày đêm thay phiên nhau chầu hầu"  (ĐVSKTT). Với tờ chiếu này, Thủ Độ chính thức đưa thân quyến họ Trần vào cung, tiếng là hầu hạ, nhưng là để bao vây cô nữ chúa nhỏ bé, dò xét động tĩnh trong nội cung và chờ cơ hội thuận tiện :  "Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ coi giữ mọi việc quân sự trong ngoài thành thị. Cháu gái Thủ Độ bằng chú là Trần Bất Cập làm Cận thị thự lục cục chi hậu  (33), Trần Thiêm làm Chi ứng cục, Trần Cảnh làm Chính thủ"  (ĐVSKTT).
Trần Cảnh là con thứ của quan Phụ quốc thái úy Trần Thừa, một cậu bé cùng tuổi với Chiêu Hoàng (sinh năm 1218) và có tướng mạo đẹp, Thủ Độ đưa cậu bé này đi sát với Chiêu Hoàng. Dù là vua đi nữa, đứa bé nào mà chẳng muốn có bạn chơi chung, ngoại trừ bị bệnh tâm thần. Chiêu Hoàng, một cô bé mới 8 tuổi, không thể nào ngoại lệ. Thấy Trần Cảnh gần mình  "Chiêu Hoàng trông thấy làm ưa, mỗi khi chơi đêm cho gọi Cảnh đến cùng chơi, thấy Cảnh ở chỗ tối thì thân đến trêu chọc, hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng lên bóng. Có một hôm, Cảnh bưng chậu nước hầu, Chiêu Hoàng rửa mặt lấy tay vốc nước té ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu, đến khi Cảnh bưng khăn trầu thì lấy khăn ném cho Cảnh… Lại một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy khăn trầu ném cho Cảnh, Cảnh lạy rồi nói: "Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh". Chiêu Hoàng cười và nói: "Tha tội cho ngươi. Nay ngươi đã biết nói khôn đó". Cảnh lại về nói với Thủ Độ "  (ĐVSKTT). Thế là "cá đã cắn câu", cô nữ chúa nhỏ bé đã chọn Trần Cảnh làm bạn để nô đùa. Thủ Độ thấy đã tới lúc cần phải hành động …
Trần Thủ Độ về bàn với Trần Thừa và bà thái hậu họ Trần (34)(mẹ Chiêu Hoàng) về những hành động  “lấy tay vốc  “nước”  té ướt cả mặt Cảnh”  của Chiêu Hoàng. Thấy Chiêu Hoàng thân cận với Trần Cảnh, Thủ Độ bày vẽ gán ghép chuyện vợ chồng cho hai đứa bé con 8 tuổi (năm 1225) (35) chưa biết chuyện gì !
Thủ Độ nói: "Nếu thực như thế thì họ ta thành hoàng tộc hay bị diệt tộc đây?"…."Thủ độ sợ việc [33b] tiết lộ thì bị giết cả, bấy giờ mới tự đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm (36). Thủ Độ đóng cửa thành và các cửa cung, sai người coi giữ, các quan vào chầu không được vào. Thủ Độ loan báo rằng: "Bệ hạ đã có chồng rồi". Các quan đều vâng lời, xin chọn ngày vào chầu" (ĐVSKTT). Cổng nội cung bị đóng, trong cung chỉ còn lại vua Huệ Tông, hoàng hậu họ Trần, Lý Chiêu Hoàng, Thái hậu họ Đàm và những người hầu hạ, còn quan lại nhà Lý thì bị chặn không cho vào. Chỉ những vị quan nào Thủ Độ muốn mời vào để…. "diễn xuất" …!
"Mùa đông, tháng 11 (Nv:1225), Thái Thượng Vương thấy nữ Vương còn nhỏ, lấy làm lo âu mới cho mời Phùng Tá Chu đến mà định mưu nói rằng: "Trẫm vì không có đức, Trẫm mắc tội với trời, cho nên bị tuyệt hậu, không có con để nối dõi. Nay Trẫm truyền ngôi cho con gái, nhưng thấy một người đàn bà mà khiến bảo đám đàn ông, như có điều là bọn chúng không giúp cho, tất đến lúc hối hận lại thì cơ nghiệp đã mất rồi. Chi bằng Trẫm theo cái phép thuở xa xưa của Đường Nghiêu, cái thể thức gần đây là Nhân Tổ (37), để kén chọn người hiền mà trao ngôi cho. Nay có điều Trẫm thấy là mỗ (38) người con thứ hai của Thái úy (Trần Thừa) tuổi hãy còn nhỏ mà tướng mạo khác thường, tất có thể giúp đời, yên dân. Cho nên, Trẫm muốn dùng làm con mà làm chủ cở nghiệp nước nhà. Vả lại, Trẫm thấy Chiêu Vương cũng xứng đôi với mỗ. Các khanh hãy vì Trẫm mà nói với quan Thái úy rõ (39) "  (ĐVSL) . Vua Huệ Tông bàn tính việc nhường ngôi cho họ Trần với Phùng Tá Chu (người thân cận của họ Trần, chắc đây là một diễn viên đã được họ Trần Thủ Độ chọn lựa)! Có lẽ vua Huệ Tông đã không thể có chọn lựa nào khác! Phùng Tá Chu, Phan Lân và Nguyễn Ngạnh là những người mà Trần Tự Khánh đã sai đi để đưa em gái của ông là Trần Thị Dung (Trần thái hậu) về với Huệ Tông. Ảnh hưởng đến quyết định của vua Huệ Tông hơn cả là bà Thái hậu họ Trần, người làm nội công cho việc thay đổi triều đại. Ngoại thích họ Trần đã làm chủ triều đình, nhà Lý coi như đã mất với quyết định không thể chọn lựa này của Thái Thượng hoàng Huệ Tông.
Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi cho Trần Cảnh, nhà Trần lên ngôi
Nơi nội cung, qua sự dàn xếp của Trần Thủ Độ và sự  trợ giúp của Trần thái hậu, mọi sự đã xảy ra đúng như ý muốn của họ Trần. Tuy nhiên nhà Lý đã làm vua Đại Việt trên 2 thế kỷ, đột ngột thay đổi một triều đại đã được toàn dân trong nước chấp nhận là một chính biến cực kỳ lớn lao, Trần Thủ Độ cũng phải nói:  "lòng dân chưa phục, mối họa không phải là nhỏ"  (40)(ĐVSKTT). Để cho dân chúng thuận theo triều đại mới, việc đầu tiên là Họ Trần phải tìm cách "thuyết phục" (41) đám quan lại nhà Lý, họ sẽ là cái gạch nối giữa triều đình mới lập và người dân. Mặc dù  Thái thượng hoàng Huệ Tông đã bằng lòng để Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh  (bàn với Phùng Tá Chu!) , nhưng việc này phải được triều đình nhà Lý công khai chấp thuận. Nếu toàn bộ triều đình nhà Lý chấp thuận tân triều, may ra lòng người mới thuận.
Một buổi họp triều đình với tất cả bá quan văn võ của nhà Lý phải được tổ chức để công khai hoá vấn đề. Sự hiện diện của chức quan cao cấp nhất trong triều là …Trần Thừa (!) với chức Phụ quốc thái úy là một sự bắt buộc, nên  "nhà vua (Nv: Chiêu Hoàng) sai quan Nội thị Phán thủ là Phùng Tá Chu, quan Nội hành khiển Tả ty Lang trung là Trần Chí Hoành, các tướng văn võ trong ngoài và các viên quan lại hãy quản lãnh thuyền rồng (42) , chuẩn bị pháp giá đến phủ Cương Tinh mà đón Thái Tổ ta (Trần Thừa)"  (ĐVSL).  Quan Phụ quốc thái úy Trần Thừa được thông báo về quyết định của Thượng hoàng Huệ Tông, nhưng  "Thái Tổ (Trần Thừa) cũng chưa tin điều ấy (43). Quan Tả phụ là Nguyễn Chánh Lại bảo rằng: "Họ Nguyễn (tức họ Lý-ND) có nước đấy. Vua hiền thì có đến sáu, bảy người gầy dựng nên cơ nghiệp, mà cái đức của họ lại có thừa, để lại cái ơn trạch thấm nhuần vào lòng người đã lâu dài rồi. Một sớm, nhà vua sợ có người khác họ làm việc kế tự nên mới có ý thăm dò thử, để xem cái ý của ta như thế nào đấy. Nếu ta nhân đó mà nhận lời, thiên hạ tất sẽ bảo Thái úy thực đã có ý soán nghịch"  (ĐVSL). Ngoại trừ trường hợp quan Tả Phụ Nguyễn Chánh Lại được họ Trần nhờ đóng kịch (?), còn nếu không thì  sinh mạng ông này có lẽ sắp bị nguy đến nơi! Trần Thừa biết rõ việc ông ta đang làm: giống như Tào Tháo thời Tam Quốc, nhiếp chính với quyền uy thật sự của một ông vua, con mình là Tào Phi sẽ lên ngôi dựng nên nhà Tấn sau này,  Tào Tháo muốn tránh tiếng cướp ngôi nhà Hán, Trần Thừa cũng sẽ làm như vậy.
  " Thái úy (Trần Thừa) muốn nghe theo lời của Nguyễn Chánh Lại thì quan Thượng Phẩm Phụng Ngự là Trần Thủ Độ nói rằng: "Lời Tả Phụ sai rồi! Nếu mà vương thượng có con trai mà lại nhường ngôi cho nhị lang  thì việc trái nghĩa ấy ta không thể vâng chiếu được. Nay, Vương thượng không người kế tự, ý muốn chọn người hiền để phó thác ngôi cao. Đó là vương bắt chước việc nhường ngôi của nghiêu Thuấn thuở xa xưa. Vậy mà lo ngại nữa sao? Huống chi, ngôi chí tôn không thể để khuyết lâu, mà ý thoái lui của vương thượng thì đã quyết, vương thượng đã dứt khoát chọn người khác họ để cho nối ngôi, liệu ta không muốn nghe theo mà được chăng? Nhị lang được vương thượng chọn cũng là ý trời, trời đã ban cho mà không nhận là có tội ấy. Xin quan Thái úy hãy xét kỹ" (44)  (ĐVSL). Trần Thừa làm ra vẻ muốn nghe theo lời của Nguyễn Chánh Lại, nhưng Thủ Độ gạt đi cho là không phải. Màn kịch "vùa tung vừa hứng" được anh em họ Trần diễn xuất một cách tài tình và có thứ tự nhịp nhàng, để bịt miệng quan lại nhà Lý bằng "ý trời" và để qua mắt thiên hạ.
Sau đó Trần Thủ Độ và Trần Thái hậu nhờ người viết sẵn bài chiếu để Lý Chiêu Hoàng hạ chiếu trước mặt bá quan văn võ:  “Xuống chiếu rằng: "Từ xưa nước Nam Việt ta đã có đế vương trị thiên hạ. Duy triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, có cả bốn biển, các tiên thánh truyền nối hơn hai trăm năm, chỉ vì thượng hoàng có bệnh, không người nối dõi, thế nước nghiêng nguy, sai trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi, từ xưa đến giờ chưa từng có việc ấy (45). Khốn nổi trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không người giúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong, làm sao mà giữ nổi ngôi báu nặng nề? Trẫm dậy sớm thức khuya, chỉ sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm người hiền lương quân tử để cùng giúp chính trị, đêm ngày khẩn khoản đến thế là cùng cực rồi, Kinh thi có nói "Quân tử tìm bạn, tìm mãi không được, thức ngủ không nguôi, lâu thay lâu thay". Nay trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, thực thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi đường hoàng, có tư chất thánh thần văn võ, dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn được. Sớm hôm nghĩ chín từ lâu nghiệm xem nên nhường ngôi báu, để thỏa lòng trời, cho xứng lòng trẫm  (46), mong đồng lòng hết sức, cùng giúp vận nước, hưởng phúc thái bình. Vậy bố cáo thiên hạ để mọi người điều biết"  (ĐVSKTT).
Sau khi đã hạ chiếu trước triều đình nhà Lý để “nhường” ngôi cho chồng là Trần Cảnh, việc đăng quang phải được chính thức hóa cho vị hoàng đế mới:  “Tháng 12, ngày mồng một Mậu Dần, Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, ngự trên sập báu, các quan mặc triều phục vào chầu, lạy ở dưới sân.  Chiêu Hoàng bèn trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế. Đổi niên hiệu là Kiến  Trung năm thứ 1, đại xá thiên hạ, xưng là Thiện Hoàng, sau đổi là Văn Hoàng. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Khải Thiên Lập Cực Chí Nhân Chương Hiếu Hoàng Đế”(ĐVSKTT).  “Rồi tôn Vương hậu Thuận Trinh (47) làm Thái Hậu và giáng Chiêu Vương (48) xuống làm Vương Hậu Chiêu Thánh. Đổi niên hiệu là Kiến Trung”  (ĐVSL). Thái Tông Trần Cảnh (49) lên ngôi, một nước không thể hai vua, Thái Tông giáng Chiêu Hoàng xuống làm Chiêu Thánh hoàng hậu.
Cậu bé 8 tuổi của họ Trần làm vua , với tuổi này Trần Thái Tông chưa có thể điều hành việc nước. Màn cuối vở kịch được diễn: “Trần Thủ Độ làm Quốc thượng phụ, nắm giữ mọi việc cai trị trong nước. Thủ Độ nói: "Hiện nay giặc cướp đều nổi, họa loạn ngày tăng. Đoàn Thưng giữ mạn đông, Nguyễn Nộn giữ mạn bắc, các châu Quảng Oai, Đại Viễn cũng chưa dẹp yên. Nhà Lý suy yếu, thế nước nghiêng nguy, nữ chúa Chiêu Hoàng không gánh vác nổi, mới uỷ thác cho nhị lang [Chàng Hai]. Nhưng Nhị lang chưa am hiểu việc nước, chính sự nhiều chổ thiếu sót, vận nước mới mở,  lòng dân chưa phục, mối họa không phải là nhỏ. Ta tuy là chú nhưng không biết chữ nghĩa gì, còn phải rong ruổi đông tây để chống giặc cướp, không gì bằng mời thánh phụ làm thượng hoàng tạm coi việc nước, một hai năm sau thiên hạ nhất thống, lại giao quyền chính cho Nhị lang". Các quan đều cho là phải, mời thánh phụ Trần Thừa nhiếp chính” (ĐVSKTT).
Trần Thừa lên và  nhiếp chính một cách "danh chính ngôn thuận" và làm Thượng hoàng . Có Thượng hoàng mới rồi, Thượng hoàng cũ phải ra đi, "Thái Thượng Vương cùng với mẹ của ngài là bà Thái Hậu Đàm thị (50) đi ra ở nơi chùa Phù Liệt, lấy hiệu là Huệ Quang Thiền Sư" (ĐVSL).Hai mẹ con cựu Thượng hoàng Huệ Tông  phải rời nội cung để ra chùa ở. ĐVSL viết tên chùa này là Phù Liệt, tuy nhiên ĐVSKTT và các bộ sử khác đều viết đây là chùa Chân Giáo (51).
Phong Trần Thủ Độ làm Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sư. Phế thượng hoàng nhà Lý ra ở chùa Chân Giáo, gọi là Huệ Quang đại sư” (52) (ĐVSKTT). Quan Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ lên làm Thái sư. Nhà Trần chính thức lên làm vua của Đại Việt. Việc chuyển giao giữa hai triều đại xảy ra một cách êm thắm, không xảy ra bất cứ biến loạn nào, do Trần Thừa chủ trương, Trần Thủ Độ làm đạo diễn và Trần Thị Dung làm phụ tá đạo diễn.
"Các quan trong triều đều công phẫn nhưng vì thế lực họ Trần qúa mạnh nên đành thúc thủ.Quần chúng lưu luyến tiền triều trong dịp này có lời khẩu-chiếm dưới đây:
            Trống kia ai đánh thùng thùng
            Của chung ai khéo vẫy vùng nên riêng"
(Phạm Văn Sơn, Việt Sử Tân Biên, quyển 1, trang 412, nhà xuất bản Đại Nam).
"Nhà Lý có công làm cho nước Nam ta nên được một nước cường-thịnh: ngoài thì đánh nước Tàu, bình nước Chiêm, trong thì chỉnh-đốn việc võ-bị, sửa-sang pháp-luật, xây vững cái nền tự-chủ. Vì vua Cao-tông hoang chơi, làm mất lòng người, cho nên giặc-giã nổi lên, loạn thần nhiễu sự. Vua Huệ-tông lại nhu-nhược bỏ việc chính-trị, đem giang-sơn phó-thác cho người con gái còn đang thơ-dại, khiến cho kẻ gian-hùng được nhân dịp mà lấy giang-sơn nhà Lý và lập ra cơ-nghiệp nhà Trần vậy" (Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, trang 122, nhà xuất bản Thông Tin, 1999).
Nhà Lý tới lúc này thật sự chấm dứt sau 216 (1010-1225) năm làm vua Đại Việt, truyền ngôi được 9 đời:
1- Lý Thái Tổ   (Lý Công Uẩn, làm vua 18 năm [1010-1028], thọ 55 tuổi [974-1028])
2- Lý Thái Tông (Lý Phật Mã, làm vua 27 năm [1028 - 1054], thọ 55 tuổi [1000 - 1054])
3- Lý Thánh Tông (Lý Nhật Tôn, làm vua 17 năm [1054- 1072], thọ 50 tuổi [1023-1072])
4- Lý Nhân Tông  (Lý Càn Đức, làm vua 56 năm [1072 - 1127], thọ 63 tuổi [1066 - 1127])
5- Lý Thần Tông (Lý Dương Hoán, làm vua 11 năm [1128 - 1138], thọ 23 tuổi [1116 - 1138]
6- Lý Anh Tông (Lý Thiên Tộ, làm vua 37 năm [1138-1175], thọ 40 tuổi [1136-1175])
7- Lý Cao Tông(Lý Long Trát, làm vua 35 năm [1176- 1210], thọ 38 tuổi [1173-1210])
8- Lý Huệ Tông(Lý Sảm, làm vua 14 năm [1211-1224], thọ 33 tuổi [1194-1226])
9- Lý Chiêu Hoàng (Lý Phật Kim, làm vua 2 năm [1224-1225], thọ 61 tuổi [1218- 1278])
Kết luận
Qua những trình bày trong phần trước, sự thay đổi triều đại từ Lý sang Trần đã không quá đơn giản. Cuộc "đảo chính không đổ máu"này chỉ xảy ra hồi tháng chạp năm Ất Dậu (1225). Liên tục trong 16 năm (1209-1225), biết bao chinh chiến điêu linh và tang tóc đã xãy ra cho người dân ở đồng bằng sông Hồng. Sự việc đã không xảy ra ngắn và gọn như ĐVSKTT viết, hay tất cả các bộ sử khác của nước Việt đặt căn bản trên bộ sử này, ngoại trừ ĐVSL của tác giả Khuyết Danh. Người viết  chỉ muốn sắp xếp lại những sự việc đã viết trong ĐVSL, cùng so sánh sử liệu này với các bộ sử khác để có cái nhìn rõ ràng  hơn về một giai đoạn chuyển tiếp quan trọng trong lịch sử nước Việt.
Những diễn tiến đã xảy ra từ lúc vua Cao Tông bôn đào khỏi kinh thành vì loạn Quách Bốc (Tháng 7, 1209). Họ Trần nhận thấy nhà Lý đã cực kỳ suy yếu, nên đã có ý muốn nhảy vào chính trường để đợi thời cơ. Ông Trần Lý nghe ngóng và biết được những việc xảy ra trong cung đình nhà Lý qua bà vợ họ Tô, cũng như em của bà này là Tô Trung Từ (hậu duệ của quan đại thần Tô Hiến Thành). Dịp may tới tay họ Trần; khi thái tử Sảm chạy loạn về Hải Ấp, họ Trần không bỏ qua cơ hội hiếm có này. Muốn có được sự liên hệ với nhà Lý và cơ hội nhảy vào chính trường, Trần Lý đã gả con gái là Trần Thị Dung - người được ĐVSKTT viết là  "có  nhan sắc" (53) - cho thái tử Sảm. Từ đây, liên hệ giữa họ Trần và họ Lý là Trần thị. Các biến cố dồn dập xảy ra, binh biến liên miên, người dân là những kẻ chịu nhiều tai ương hơn cả, nhà cửa cung điện tại kinh thành bị đốt tiêu tan, cả vùng bị dìm chết. Trần Tự Khánh là kẻ gây hoạ cho người dân nhiều nhất so với các "sứ quân" khác; liên tục trong 7 năm trời (khi Huệ Tông chưa về với Tự Khánh). Mãi tới lúc theo giúp nhà Lý, trong thời gian 7 năm; Trần Tự Khánh đã ra công đánh dẹp khắp nơi, họ Trần đã tạo được một sự ổn định tương đối cho đất nước tới khi nhà Trần lên ngôi.
Lịch sử đã lập lại và sẽ tái diễn cho những chế độ quân chủ; phong kiến; độc tài; chuyên chế: bất cứ một chế độ nào đi ngược lại lòng người dân sẽ bị đào thải.  Họ Lý suy vong, họ Trần lên ngôi, rồi họ Trần cũng sẽ như họ Lý, sẽ bị thay thế bởi họ Hồ. Họ Hồ dứt cũng vì không được lòng dân, rồi đất nước lâm vào cảnh Minh thuộc thảm khốc đau thương.
Để kết luận, người viết xin đưa câu nói của  Hồ Nguyên Trừng (54) khi nhà Minh chuẩn bị mang quân sang xâm lăng nước Việt (1405). Vua nhà  Hồ (55) là Hồ Hán Thương hỏi thì "Tả tướng quốcTrừng nói: "Thần không sợ đánh, chỉ sợ  lòng dân  không theo thôi!". Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Mệnh trời là ở lòng dân . Câu nói của Trừng hiểu được điều cốt yếu đó…."  
Nước mất thì nhà tan, dân ly tán. Bài học tự ngàn xưa đã được chứng minh và viết lại bằng máu và nước mắt nhiều lần! Để ích quốc lợi dân và nước Việt được trường tồn, ai là người biết áp dụng những kinh nghiệm lịch sử đã bị trả bằng giá núi xương sông máu này ? ./.
Tham khảo
- Đại Việt Sử Lược ***, Thế Kỷ 14 (1377 - 1388), soạn giả: Khuyết danh, 1377 –1388, dịchgiả: Nguyễn Gia Tường, 1972. Ấn bản điện tử: Công Đệ, Lê Bắc.
*** Ghi chú : theo như sự khảo cứu của TS Lê Mạnh Thát thì Đại Việt Sử Lược là của Trần Chu Phổ "đây là một tác phẩm biệt lập và có khả năng là của Trần Chu Phổ, sống khoảng trước sau 1225-1258" (TS Lê Mạnh Thát, bài viết "Bàn về một phương pháp khoa học tích cực trong công trình nghiên cứu văn hóa Việt Nam")

- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bản in Nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697). Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1998.
- Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục. Quốc Sử Quán Triều Nguyễn soạn thảo (1856-1881). Viện Sử Học dịch (1957-1960). Nhà xuất bản Giáo Dục (Hà Nội) ấn hành 1998.
- An Nam Chí Lược, Lê Tắc, dịch giả: Ủy ban dịch sử liệu Việt Nam, nhà xuất bản: Viện Đại Học Huế,   ấn bản điện tử: Công Đệ, Doãn Vượng, Lê Bắc.
- Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim- Nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin-1999.
- Việt Sử Tân Biên- Phạm Văn Sơn-Nhà xuất bản Đại Nam- Sàigon 1961.
- Đại Việt Sử Ký Tiền Biên, Ngô Thời Sỹ, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1997.

- Việt Sử Tiêu Án, Ngô Thời Sỹ, dịch giả: Hội Việt nam ngiên cứu liên lạc văn hóa Á Châu, nhà xuất bản văn Sử. Ấn bản điện tử : Công Đệ, Doãn Vượng, Lê Bắc.
- Đại nam Nhất Thống Chí, Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, người dịch: Phạm Trọng Điềm, người hiệu đính: Đào Duy Anh, nhà xuất bản Thuận Hoá , 1997

1. Doãn Tín Dực là quan nhà Lý, ông này chống lại Trần Tự Khánh, đã bị Khánh bắt giam rồi lại thả ra - đã trình bày trong phần trước.
2. Người viết không biết chính xác địa danh này, nhưng phỏng đoán là  núi Tam Trĩ ở gần sông Thương thuộc  tỉnh Bắc Giang ngày nay
3. Chú thích của dịch giả : Cam Giá ở Hà Tây.
4. Người viết phỏng đoán là núi này nằm phía  nam  sông Thiên Đức (sông Đuống), Bắc Ninh. ĐVSL viết : " Đông Cứu và vùng Hồng hai cõi liền nhau" . Ngày nay có một địa danh là xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh
5. Người viết phỏng đoán vùng này nằm phía đông của Thăng Long, phía tả ngạn sông Hồng
6. Người viết tự hỏi : không biết bà vợ của Nguyễn Nộn được ĐVSL nói lúc này có phải là con của bà dì của Khánh;  mà Khánh đã gả cho Nộn hồi tháng 9 năm trước (1213), hay là người vợ nào khác của Nộn.
7. Huệ Văn Vương do Trần Tự Khánh  lập nên làm vua
8. Bà thái hậu họ Đàm này có lẽ muốn tiêu diệt hết tông thất của họ Lý .
9. Ghi chú của dịch giả :" Cứu Liên, Cửu Cao và Cửu Ông nay thuộc vùng tiếp giáp giữa Hưng Yên và Bắc Ninh".
10. Người viết chưa tra cứu được vị  trí của địa danh An Duyên Phù Liệt. Tuy nhiên trong ghi chú của dịch giả thì Phù Liệt thuộc Thanh Trì, Hà Đông. Ghi chú của  Đại Việt  Sử Ký Toàn Thư  thì "Tây Phù Liệt và  Đông Phù Liệt " nay ở huyện Thanh Trì, Hà Nội.
11. Không thấy ĐVSL nói nhà vua sai lực lượng nào đi đánh Lại Linh. Theo thiển ý của ngưới viết thì đây là lực lượng của Nguyễn Nộn
12.  Tác giả Trần Gia Phụng trong Việt Sử Đại Cương  tập 1, trang 210 có đề cập đến một hoàng thân nhà Lý như sau:
"Sau khi nhà Lý mất ngôi, hoàng tử Lý Long Tường, một người con thứ của Lý Anh Tông, đã bỏ nước ra đi vào năm 1226 (bính tuất). Ông cùng đoàn tùy tùng dùng thuyền vượt biển sang Trung Hoa, rồi qua lập nghiệp ở Triều Tiên (hay Cao Ly tức Korea)".
Cũng trong sách này, ghi chú số 3, trang 223: " Nguyễn Văn Canh, "Hoàng Tử Lý Long Tường", đăng trong Kỷ Yếu Bắc Ninh, 1997, tt 105-128. Khi Mông Cổ sang xâm lăng Triều Tiên vào các năm 1232 và 1253, Lý Long Tường đã góp sức chống quân Mông Cổ, lập chiến công nên được vua Triều Tiên trọng thưởng. Cháu chắt dòng dõi của Lý Long Tường đã tìm về Việt nam để thăm quê hương của tổ tiên. Tài liệu chính để tiến sĩ Nguyễn Văn Canh viết bài nầy là tấm văn bia tại Thụ Hàm Môn (Thụ Hàm Môn bi các) hiện còn ở Thụ Hàm Môn (Bắc Triều Tiên) và quyển lịch sử tiểu thuyết Triều Tiên là Hoàng Tử Lý Long Tường. Tiểu thuyết dã sử  nầy căn cứ theo gia phả họ Lý ở Triều Tiên, với ít nhiều thêm bớt.
13.  Khu Cầu Giấy, Hà Nội.
14. Linh Nhân Hoàng Thái Hậu là Ỷ Lan Phu Nhân, vợ vua thứ  3 nhà Lý là Lý Thánh Tông, mẹ của vua Lý Nhân Tông (Lý Càn Đức)
15. Ghi chú của người dịch : " Đại Hoàng là nơi sanh trưởng của Đinh Tiên Hoàng đế, tức thuộc huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình ngày nay ".
16."Hồi tâm" vì cô em gái của Tự Khánh là vợ vua "bắn tin" cho.
17. Đợi ban đêm, mẹ và con không  biết  nên vua Huệ Tông mới dám có quyết định dẫn vợ để về với Trần Tự Khánh. Thế là mẹ và hai cô công chúa còn bé tí phải đi lẩn tránh ở Ô Kim.
18. Người viết không thấy ĐVSL nói lúc nào Ô Kim Hầu Lý Bát được phong là Hiển Tín Vương
19. Bao nhiêu cung thất trong đại nội (tại quận Ba Đình, Hà Nội) đã bị đốt sạch, nên cung điện mới bằng cỏ  được Tự Khánh dựng lên ở phía nam Thăng Long, huyện Thanh Trì, Hà Nội ngày nay
20. Không thấy ĐVSL nói  Phạm Ân là tướng của ai, người viết phỏng đoàn đây là một bộ tướng của Trần Tự Khánh, được Khánh cử đi đóng quân ở Lãnh Kinh (phía nam sông Cầu,  thị xã Bắc Ninh ngày nay ).
Ải Đạo- người viết chưa tra cứu được địa danh này, chỉ phỏng đoán đây là đồn của quân Trần Tự Khánh dựng nên để ngăn quân Bắc Giang của Nguyễn Nộn, phía bắc Thăng Long, phía nam sông Cầu.
21. Ghi chú của người dịch: “ Khoảng phủ Vĩnh Tường, trước thuộc tỉnh Sơn Tây, nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên”
22. Sau trận này, không thấy ĐVSL nhắc tới Hiển Tín Vương Lý Bát, người viết phỏng đoán là ông đã bị chết hay bị giết trong trận này .
23. Người viết chưa tra cứu được Bình Cảo ở đâu.
24. Trần Tam Nương đã gả cho Nguyễn Đường, Đường chết, Tự Khánh lại gả cô em cho Đoàn Văn Lôi. Đây là cách họ Trần thường dùng để giảng hoà, hay mưu lợi cho dòng họ cũng như cho đất nước về sau này, con gái họ Trần hoặc thân thuộc đã bị hy sinh nhiều lần cho mưu đồ chính trị:
Trần Thị Dung gả cho thái tử Sảm (vua Huệ Tông),
Trần Tự Khánh gả em là Trần Tam Nương cho Nguễn Đường, Đường chết lại gả Tam Nương cho Đoàn Văn Lôi,
Trần Tự Khánh gả  em họ (con của bà dì ) cho Nguyễn Nộn.
Công chúa Ngoạn Thiềm gả cho Nguyễn Nộn để theo dõi Nộn
Vua Trần Thái Tông (Trần cảnh) gả chính vợ của mình là Chiêu Thánh công chúa cho Lê Phụ Trần.
Vua Trần Nhân Tông gả em gái của mình là  An Tư  công chúa cho Thoát Hoan
Vua Trần Nhân Tông gả Huyền Trân công chúa cho Chế Mân (vua Chiêm Thành ) để đổi lấy hai châu Ô, Lý.               
25. Sông Tuyên Quang là khúc sông chảy ngang thị xả Tuyên Quang tới chỗ nhập vào sông Hồng
26. Ghi chú của người dịch: "Lộ Thượng Nguyên nay thuộc Bắc Cạn và Thái Nguyên"
27. Ghi chú của người dịch: "Tam Đái: nay thuộc Vĩnh Phú"
28. 108) Theo thiển ý, chức  "Phụ quốc thái uý" tương đương với chức tể tướng hay Thủ tướng ngày nay
29. 109) Trước đó thì ghét cay ghét đắng, nhưng sau đó lại như thế này! Vua Huệ Tông thì tâm thần không sáng suốt, tuy nhiên thái hậu và đám ngoại thích không nhìn thấy là nhà Lý đang từ  từ rơi vào tay họ Trần hay sao?
30. 110) Trần Báo được phong tước vương và thụy hiệu thì chắc là ông này vừa qua đời. Người viết chưa tra cứu được Thượng phẩm hầu  Trần Báo có liên hệ thế nào với Trần Tự Khánh. Ông này chắc là phải có liên hệ  rất gần với  Tự Khánh nên mới được phong tới Thượng phẩm hầu, rồi khi chết được phong tước vương . Trần Hải là con Trần Tự Khánh được phong tước Hiển Đạo Vương khi còn sống. Vậy theo phỏng đoán của người viết thì Trần Báo là em Trần Hải, con Trần Tự Khánh.
31. 111) ĐVSKTT:  "Mùa hạ, tháng 6, hoàng trưởng nữ sinh ở bãi Cửu Liên, sau phong làm công chúa Thuận Thiên" . Người viết chưa tra cứu được tên thật của vị công chúa này. Công chúa Thuận Thiên sau này được gả cho con cả  Trần Thừa là Trần Liễu  (Thuận Thiên công chúa là con của bà cô Trần Liễu - Trần Thị Dung), tuy nhiên khi bà này có thai 3 tháng, Trần Thủ Độ bắt gả cho Trần Cảnh là em Trần Liễu vì lúc này Thái Tông Trần Cảnh chưa có con trai.
32. 112) Ghi chú trong ĐVSKTT:  "Lục hỏa thị cung ngoại: sáu hỏa (có lẽ là sáu đội lính) hầu ngoài cung; Chi hậu, Nội nhân thị nội: các chức chi hậu và nội nhân hầu bên trong".
33. 113) Ghi chú trong ĐVSKTT:  " Cận thị thự lực cục chi hậu: chức chi hậu ở sáu cục của cận thị thự là thự giữ việc hầu cận vua"  (câu này có vẻ khúc mắc khó hiểu, tuy nhiên người viết sao lại giống như bản chính).
34. 114) Trần thái hậu lúc này đã có “cảm tình” với quan Điện Tiền chỉ huy sứ lâu rồi, từ khi ông này vào cung (1224) hay trước đó (?) và vua Huệ Tông thì đang ở chùa Chân Giáo.
Hoàng hậu mới cùng với Thủ Độ tư thông, rồi bàn mưu ở trong cung làm tờ chiếu để vua nhà Lý truyền ngôi cho nhà Trần” (VSK ĐTGCM).
35. 115) Cuối thời Lý, câu “nữ thập tam nam thập lục” chưa có trong dân gian hay sao mà họ Trần bắt Trần Cảnh và Chiêu Hoàng “tảo hôn” sớm thế này!  Dù “lửa gần rơm” nhưng  đứa bé trai 8 tuổi thì làm sao mà làm đượ c “chuyện người lớn”. Chắc là tại Trần thái hậu và quan Điện tiền chỉ huy sứ  quá “sốt ruột” nên tự châm lửa “đốt rơm”!
36. 116) Quan Điện tiền chỉ huy sứ rõ là vẽ chuyện ! Ai dám vào đây mà giết! Quân đội coi nội cung thì ngài coi. Ngoài thì Phụ quốc Thái úy Trần Thừa nắm toàn bộ binh lực họ Trần. 
37. 117) ND: "Nhân Tổ tức là Lý Nhân Tông. Lý Nhân Tông riêng trong hoàng tộc thì đối với Lý Huệ Tông cũng là hàng "Tổ". Nhân Tông (tức Nhân Tổ) không có con truyền ngôi cho cháu là Dương Hoán, tức là Lý Thần Tông".
38. 118) ND: " Người chép sử ở vào triều nhà Trần nên kiêng tên húy của vua Trần Thái Tông là Trần Cảnh mà chép tên "mỗ"…"
39. 119) NV: "Thưa thượng  hoàng, Quan Thái úy đã biết sự việc rất rõ ràng từ đầu tới cuối rồi ạ !"
40. 120)  "Mối họa thật không phải nhỏ" , đúng thế! Nguyễn Nộn ở Bắc Giang đang tăng cường binh lực, Đoàn Thượng và Đoàn văn Lôi đang là bá chủ vùng Hồng. Nếu toàn dân theo hai ông này thì họ Trần dù làm vua cũng không yên.
41. 121)  Đe doạ và khủng bố thì đúng hơn.
42.  122)Thuyền rồng và  pháp giá chỉ dùng cho nhà vua. Muốn gặp một ông quan dù cao cấp mấy đi nữa thì vua chỉ sai người vời vào. Lấy thuyền rồng đi đón thì đúng là bố vua! Bố vua là thượng hoàng. Sao lại lộ liễu thế này! Đạo diễn Thủ Độ hơi bị sơ xuất trong vở kịch.
43. 123)Theo ý người viết thì nên sửa là “Thái Tổ (Trần Thừa) “giả bộ” chưa tin điều ấy”.  Tuy nhiên cũng có thể kẻ chủ mưu "chưa tin" vì  không ngờ là sự việc lại xảy ra thuận lợi quá thế này !
44.124) NV: “Ý trời”? Quan Phụ quốc Thái uý đã chuẩn bị theo “ý trời” từ lúc đưa con mình là Trần Cảnh vào nội cung!
45.125) Có lẽ người viết bài chiếu này không đọc sử Việt nên không biết là Hai Bà Trưng đã từng làm vua.
46.126) Lý Chiêu Hoàng  mới có 8 tuổi mà lại phải   “suy đi tính lại một mình…nghĩ chín từ lâu” ! Thái hậu, Thái úy và Điện tiền chỉ huy sứ  đã  “suy đi tính lại” dùm cho nhà vua và cả họ Lý rồi!  Không biết ai làm bài chiếu này, lố bịch quá sức !
47. 127) Vương hậu Thuận Trinh là Trần Thái hậu, cô ruột của Thái Tông Trần Cảnh, bà này tạm thời vẫn được làm Thái hậu.
48. 128) Ghi chú của dịch giả :  “Nhiều bộ sử khác chép là "Chiêu Hoàng". Bản chữ Hán sách này không thấy chép: Thái Thượng Hoàng, Hoàng Đế, Hoàng Hậu, Hoàng Tử v.v... Cả đến chữ "vua chết" không viết "đế băng" mà viết "vương hoăng". Có phải khi ở trong "Tứ khổ toàn thư", bộ sử này đã bị người Trung Hoa với cái thủ đoạn chính trị lúc bấy giờ mà sửa khác đi chăng?” .
49. 129) Miếu hiệu là Thái Tông, vì đã lên ngôi vua nên danh xưng được các sử gia gọi là Trần Thái Tông
50. 130) Người viết chưa thấy sử liệu nào nói về số phận bà Thái hậu họ Đàm. Có lẽ khó mà yên với Trần thái hậu, người đã bị Đàm thái hậu ép tự tử rồi sau đó còn định lén đánh thuốc độc cho chết, may mà thoát vì được vua Huệ Tông giúp.
51. 131) Đoạn sau của ĐVSKTT viết :  "Trước đó, Thượng hoàng nhà Lý có lần ra chơi chợ Đông, dân chúng tranh nhau chạy đến xem, có người thương khóc. Thủ Độ sợ lòng người nhớ vua cũ, sinh biến loạn, cho dời đến ở chùa Chân Giáo; bề ngoài giả vờ là để phụng sự, mhưng bên trong thực ra là để dễ bề giữ chặt" . Vậy có thể trư ớc khi vua Huệ Tông tới chùa Chân Giáo đã ra ở chùa Phù Liệt.
52. 132) Tháng 8, năm 1226 (8 tháng sau khi nhà Trần lên làm vua), Trần Thủ Độ ép vua Huệ Tông tự tử chết và sau đó  "Giáng hoàng hậu của Huệ Tông làm Thiên Cực công chúa, gả cho Trần Thủ Độ"  (ĐVSKTT). Đây là vụ đồng tộc kết hôn (loạn luân)  thứ hai của họ Trần khi nhà Trần mới vừa lên ngôi. Trần Cảnh lấy Chiêu Hoàng là con của cô ruột (em Trần Thừa), nay Thủ Độ lại chính thức lấy bà chị họ, con chú bác. Thủ Độ chủ trương đồng tộc kết hôn để thế lực không lọt vào tay ngoại thích như họ Trần đã làm với nhà Lý. Sau này họ Trần sẽ còn xảy ra rất nhiều vụ đồng tộc kết hôn.
53.133)   "Hoàng thái tử [Sảm] đến thôn Lưu Gia704 ở Hai Ấp nghe tiếng con gái của Trần Lý có nhan sắc, bèn lấy làm vợ"  (ĐVSKTT)
54. 134) Hồ Nguyên Trừng là con cả của Hồ Quí Ly, tác giả của "Nam Ông Mộng Lục" (viết năm 1442, hồi ký nói về nước Việt) , ông cũng là nhà kỹ thuật giỏi, đã chế ra súng "thần cơ". Được nhà Minh trọng dụng, ông đã được thăng tới chức Tả thị lang bộ Công
55. 135)  Hồ Quí Ly lúc này đang là Thái thượng hoàng