Ảnh

Ảnh

Thứ Năm, 30 tháng 8, 2012

Giao Chỉ và Tượng Quận

Trần Việt Bắc

LTS: Người Việt chúng ta ai đã đọc và tìm hiểu về sử thì đều biết là sử nước Việt chỉ được bắt đầu được viết từ thời nước Việt có tự chủ, nói cho đúng hơn là từ thời Lý. Quyển sử đầu tiên được viết là Sử ký của Đỗ Thiện, rồi sau đó là Việt Chí của Trần Chu Phổ, rồi Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu. Những quyển sử này đã bị thất lạc. Quyển sử đầu tiên còn lại là Đại Việt Sử Ký Toàn thư (ĐVSKTT) của ông Ngô Sĩ Liên, từ khi lưu hành, đã được coi là bộ chính sử và được tham khảo bởi nhiều bộ sử khác.Quyển sử này đã ghi lại được những tài liệu trong sách của ông Lê Văn Hưu để chúng ta - hậu thế- có thể biết được những việc đã xảy ra trong quá khứ của tộc Việt. . Bộ sử này đã viết lại những việc từ ngày lập quốc của nước Việt, thời điểm cả ngàn năm trước khi ĐVSKTT được viết.Từ thời dựng nước mơ hồ với những truyền thuyết, rồi sau đó là hàng chục thế kỷ bị đô hộ, nào có ai ghi lại những việc đã xảy ra! (Mà nếu có ghi chép lại cũng sẽ bị thiêu hủy bởi những kẻ chiếm đóng; vì khác với quan niệm của họ!).
Những sự kiện thành văn, ĐVSKTT một phần lớn đã tham khảo từ các sử sách của Trung Quốc. Tuy nhiên đây là những văn bản đầy thành kiến, theo quan niệm của một quốc gia thống trị viết về một quốc gia bị trị, thí dụ như Hậu Hán Thư quyển 116 chép về văn hóa của người Lạc Việt như sau: "Người Giao Chỉ không phân biệt trưởng ấu... Không biết lễ giá thú, chỉ theo dâm hiếu mà không biết tình cha con, không biết đạo vợ chồng, ..." (trích từ Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn) . Đây là những câu viết của người có quan niệm thống trị, tác giả là Phạm Việp. Ông ta không hiểu phong tục người Việt xứ Âu Lạc, cũng như không tìm hiểu thêm; để viết về một dân tộc có văn hoá và truyền thống khác hẳn Trung Quốc,  nhận định theo quan điểm riêng, thiếu sự khách quan của một người viết sử.
Bởi thế, sau khi tham khảo chúng ta chỉ nên lấy những sự kiện - sự kiện mà thôi -của các sử gia Trung quốc cho thời khuyết sử của tộc Việt. Sau đó phải so sánh các sự kiện này với sự kiện khác, kiểm chứng và rút tỉa ra những điều không bị cảm tính chi phối, may ra chúng ta mới biết được đâu là sự thật của quá khứ đã được ngoại bang ghi chép. Vì thế chúng ta phải rất thận trọng khi tham khảo cổ sử của Trung Quốc để tìm hiểu về sử nước nhà. Từ những tham khảo này, bộ ĐVSKTT đã dựng nên một quá khứ của tộc Việt cho thời khuyết sử mà một phần lớn đã tham khảo từ sử liệu của Trung Quốc. Điều này đã gây nên nhiều nghi vấn cho hậu hậu thế!
Hậu thế chúng ta may mắn có được những phương tiện truyền thông tân tiến. Tham khảo sử liệu qua "internet" là một việc hết sức dễ dàng - nếu chúng ta muốn làm - ai cũng có thể tra cứu những tài liệu, mà ngày xưa, tiền nhân mong muốn nhưng không tìm được. Bằng chứng là rất nhiều người đang bàn thảo về sử Việt trong các diễn đàn ở các "Web site" khác nhau. Người viết cũng chỉ là một trong những người đang làm việc này, hoàn toàn làm theo sở thích và vì sự tò mò, với mong muốn được hiểu biết thêm về sử Việt. Biết đâu có thể góp ý cho những bạn đọc cùng sở thích, và đặc biệt là có thể cống hiến cho các bạn trẻ muốn tìm hiểu về sử Việt.
Dù sự hiểu biết về sử rất giới hạn và cũng không biết lượng sức (hiểu biết về Hán học của người viết rất là thô thiển!), nhưng cũng cố gắng tìm câu trả lời để mong biết đâu là sự thật (!) cho những câu hỏi về nguồn gốc của mình, (với sự trợ giúp của các nhu liệu thông dịch (1) cũng như bộ tự điển Hán Nôm của Thiều Chửu và những "chức năng" (function) của "Word").
Mong mỏi được học hỏi thêm từ các học giả thông hiểu về sử học cũng như Hán học.
----------------------------------------------
Đại Việt Sử Ký Toàn thư là bộ chính sử của nước Việt, được viết lại với nhiều truyền thuyết của nhân gian và những tham khảo từ cổ sử của Trung Quốc cho thời gian khuyết sử của nước Việt, như Sử Ký của Tư Mã Thiên, Hán Thư của Ban Cố, Hậu Hán Thư của Phạm Việp cùng các bộ sử khác. Tuy nhiên ĐVSKTT đã có nhiều vấn đề khi tham khảo từ những sử liệu này. Như sử liệu bị chi phối vì hoàn cảnh và cảm tính của các sử gia, cùng những sự kiện đôi khi mâu thuẫn đã được nêu lên trong cổ sử của Trung Quốc. Việc này đã gây nên những tham khảo vòng quanh và sự suy đoán theo những chiều hướng khác nhau đầy hoang mang của hậu thế. Rồi những giả thuyết được đưa ra những tranh luận triền miên.
Bài viết này, người viết xin nêu lên vấn đề tương quan giữa Giao Chỉ, tức là cổ Việt và Tượng Quận thời Tần để mong có sự góp ý của các bậc thức giả, ngõ hầu chúng ta có thể hiểu biết thêm về vấn đề nan giải này trong sử Việt .
ĐVSKTT: [i]Đinh Hợi, năm thứ 44 [214 TCN], (Tần Thủy Hoàng năm thứ 33). Nhà Tần phát những người trốn tránh, người ở rể người đi buôn, ở các đạo ra làm binh, sai hiệu úy Đồ Thư đem quân lâu thuyền, sai Sử Lộc đào ngòi vận lương, đi sâu vào đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất [b]Lục Dương [/b] (2), đặt các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận (tức là An Nam) ; ...".
Sau đó là An Nam Chí Lược của Lê Tắc (Trắc), 1335, được in bởi Viện Đại Học Huế, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt nam, 1961. Được chuyển qua ấn bản điện tử bởi các ông Công Đệ, Doãn Vượng, Lê Bắc năm 2001: "QUYỂN ĐỆ NHẤT, Tống Tự. Nhà Tần (246-207 trước công nguyên) lấy Giao Chỉ làm Tượng-Quận;...".
Theo như trích dẫn trên thì An Nam (cổ Việt gồm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam) là Tượng Quận thời Tần. Câu viết này đã nêu lên một số nghi vấn cho các sử gia. Rồi từ nghi vấn này dẫn đến những nghi vấn khác cùng với các giả thuyết khác nhau. Điều này đã gây nên nhiều khó khăn cho sự tìm hiểu về sử Việt cho hậu thế - mà người viết là một.

1- Quan tâm của các sử gia về vấn đề Giao Chỉ và Tượng quận.
Đại Việt Sử Cương (ĐVSC) của sử gia Trần Gia Phụng, tập 1, trang 74:
"1. Trung Hoa xâm chiếm cổ Việt. ... . Năm 214 TCN (đinh hợi), Tần Thủy Hoàng Đế (Ch'in Shih Huang-ti, trị vì 221-210 TCN) sai Đồ Thư và Sử Lộc cầm quân tiến xuống phía nam, vượt sông Dương Tử, chiếm vùng đất mà người Trung Hoa gọi là vùng Bách Việt, lập ra 3 quận là Quế Lâm (Kueilin, nay là vùng bắc và đông Quảng Tây), Nam Hải (Nanhai, tức Quảng Đông) và Tượng Quận (Hsiang, vùng Bắc Việt ngày nay)" .
Mặc dù ông Trần Gia Phụng viết là quân Tần xâm chiếm cổ Việt vì Tượng Quận là vùng Bắc Việt ngày nay, nhưng trong ghi chú số 27, trang 65, ông đã nêu lên vấn đề như sau:
[i]" Toàn Thư cũng như các bộ sử khác, kể cả Cương Mục chép theo các bộ sử Trung Hoa việc tướng nhà Tần đã chiếm đất Lĩnh nam và đặt ra các quận Quế Lâm (nay là vùng bắc và đông bắc Quảng Tây), quận Nam Hải (nay là Quảng Đông) và Tượng Quận (vùng cổ Việt) năm 2q14 TCN. Sau đó toàn thư và các bộ sử cũ của nước ta lại [b]viết thêm[/b] (tvb: do tác giả tô đậm) rằng: Lúc đó, tại cổ Việt có triều đại An Dương Vương (trị vì 257-208TCN). Về các sự kiện liên quan đến triều đại An Dương Vương, các câu hỏi được đặt ra là: Thục Phán, người nước Ba Thục ở tận Tứ Xuyên (Sichuan), Trung Hoa, sao có thể qua tới cổ Việt để đánh Hùng Vương? [Phía bắc của Bắc Việt là hai tỉnh Vân nam (Yunnan) ở tây bắc và Quảng Tây (Giangxi) ở đông bắc. Phía bắc hai tỉnh này mới là Tứ Xuyên.] Chuyện nỏ thần có thể là lịch sử hay không? Cuối cùng,[b] nếu năm 214 TCN cổ Việt bị quân Hán chiếm và đổi thành Tượng Quận[/b] rồi, thì cần gì Triệu Đà phải đánh lần nữa vào các năm 210 TCN và 208 TCN? Vậy phải chăng chuyện An Dương Vương chỉ là truyền thuyết".[/i]
Một lần nữa, trong ghi chú số 5, trang 100, ông lại nêu lên sự quan tâm của mình:
[i]" .... . Ở đây có một điểm trong các sách sử cũ cần cẩn án: 1) Nếu theo các bộ sử cũ, năm 214TCN, Đồ Thư và Sử Lộc chiếm đất Lĩnh Nam (phía nam núi Ngũ Lĩnh) lập ra 3 quận Quế Lâm, Nam hải và Tượng Quận,[b] mà Tượng Quận bao gồm cả cổ Việt,[/b] thì tại sao các bộ sử cũ còn chép rằng Triệu Đà hai lần đánh cổ Việt, năm 210 TCN và năm 208 TCN? Nếu Triệu Đà phải đem quân đi đánh cổ Việt,[b] có nghĩa là lúc đó người Trung Hoa chưa chiếm được cổ Việt.[/b] 2) Thứ nhì, nếu cổ Việt đã rơi vào tay Đồ Thư từ năm 214 TCN, thì chuyện An Dương Vương dùng nỏ thần để chống cự với Triệu Đà chỉ là chuyện truyền thuyết không có thật". [/i]
Vậy nếu Tượng quận gồm cổ Việt thì sử liệu nói về An Dương Vương chỉ là truyền thuyết! 
Việt Nam Sử Lược (VNSL) của sử gia Trần Trọng Kim, ấn bản đầu tiên năm 1921, được in lại bởi nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin, 1999, trang 29:
3. Nhà Tần Ðánh Bách Việt. Khi An Dương Vương làm vua nước Âu Lạc ở bên này, thì ở bên Tàu vua Thủy Hoàng nhà Tần, đã nhất thống thiên hạ. Ðến năm đinh hợi (214 trước Tây lịch). Thủy Hoàng sai tướng là ÐồThư đem quân đi đánh lấy đất Bách Việt (vào quãng tỉnh Hồ Nam, Quảng Ðông và Quảng Tây bây giờ). An Dương Vương cũng xin thần phục nhà Tần.Nhà Tần mới chia đất Bách Việt và đất Âu Lạc ra làm ba quận, gọi là: Nam Hải (Quảng Ðông), Quế Lâm (Quảng Tây) và Tượng Quận (Bắc Việt (2)).
Người bản xứ ở đất Bách Việt không chịu để người Tàu cai trị, trốn vào rừng ở. Ðược ít lâu quân của Ðồ Thư, vốn là người ở phương bắc, không chịu được thủy thổ, phải bệnh rất nhiều. Bấy giờ người Bách Việt thừa thế nổi lên giết được Ðồ Thư".

Theo sử gia Trần Trọng Kim; thì Bắc Việt (cổ Việt) là Tượng quận thời nhà Tần.
Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt (NGMLCDTV) 1971, được in lại bởi nhà xuất bản Xuân Thu, Los Alamitos California. Tác gỉa là nhà văn và cũng là học giả Bình Nguyên Lộc. Đây là một bộ sách khá dầy, nặng phần khảo cứu về ngữ pháp, gần 900 trang (khổ nhỏ) . Tác giả đã viết một đoạn khá dài (từ trang 221 đến trang 287) trong chương 2: " Những sai lầm", tiết mục D: "NƯỚC TÂY ÂU MƠ HỒ VÀ TƯỢNG QUẬN BÍ MẬT", để nói về sự phản tương quan giữa cổ Việt và Tượng Quận. Ông đã đưa ra những nhận xét (với cách hành văn châm biếm và đôi khi hài hước của một văn sỹ, cùng với những kiến thức của một học giả uyên bác về ngữ học, phê bình về những sử liệu mà theo ông là ngụy tạo, đây là một điều rất hào hứng cho người viết!) để nói lên những sai lầm về giả thuyết của các học giả như: L. Aurousseau, H. Maspéro, Trần Kinh Hòa, Nguyễn Phương,... .  Sau đó ông dùng "4 bằng chứng", đặc biệt là bằng chứng thứ 4, đã được coi là bằng chứng "quyết định" để ông có thể đi đến những kết luận như sau:
Trang 283:
" Với câu sử của Tư Mã Thiên và Lưu An (3) và những gì chúng tôi đưa ra để bác bỏ các thuyết, ta đã làm sáng tỏ được:
1.- Tần không hề đánh xuống khỏi Hạ-chí -Tuyến Bắc, tức Tây Âu không là cổ Việt.
2.- Tâu Âu Lạc là một địa danh hoàn toàn không có.
3.- Huyện Tây Vu không thể là nước Tây Âu hùng mạnh.
4.- Thượng du tả ngạn Nhĩ Hà không thể là nước Tây Âu hùng mạnh.
5.- Trạch Hu Tống là vua của Tây Âu, theo Lưu An chép. Khi Tây Âu không là Bắc Kỳ, không là Thượng du Bắc Việt thì Trạch Hu Tống (4) chẳng dính líu gì tới cổ Việt hết.
6.-Tượng Quận không hề là Bắc Kỳ, vì Tần Thỉ Hoàng không có chiếm Tượng Quận.
7.- Không có chánh sách trồng người tại cổ Việt Nam để đẩy dân Việt nam vào thế thiểu số."

Đặc biệt là trong chương này ông cũng đã đưa ra một giả thuyết khá lý thú về nguồn gốc của An Dương Vương, tuy nhiên đây không phải là trọng tâm của đề tài, nên người viết hy vọng có thể sẽ trình bày vấn đề này trong một bài viết khác trong tương lai.
Việt Sử Toàn Thư (VSTT) của sử gia Phạm văn Sơn, ấn bản đầu tiên năm Canh Tí (1960), tái bản bởi nhà xuất bản Đại Nam, tủ sách sử học, trang 50:
Về Tượng Quận, Việt Nam Sử Lược chép là Bắc Việt . Chúng tôi không đồng ý vì Bắc Việt khi đó là Âu Lạc đã thành Tượng Quận thì sau nầy đâu có sự kiêm tính của Triệu Ðà bằng binh đao, chúng tôi cũng không thấy sách nào nói như Việt Nam Sử Lược rằng An Dương Vương đầu phục nhà Tần để quyết định rằng vì sự thần phục nầy mà Âu Lạc biến thành Tượng Quận. Tóm lại ảnh hưởng của nhà Tần bấy giờ chỉ mới đến địa phận Tây Âu là tỉnh Quảng Tây và miền Uất Lâm cùng Nam Hải. Sau đó Tần triều phái 50 vạn người tù đầy đến chiếm đóng các nơi đã cướp được để bảo vệ bộ máy cai trị vừa mới thiết lập".
Ông Phạm Văn Sơn cũng đưa ra thêm ghi chú ở cuối trang 50 này như sau:
"Theo Trúc Khê tiên sinh: Sử ta nói Tượng Quận nhà Tần là đất Bắc Kỳ. Trung Kỳ bây giờ, song so sánh địa lý và dẫn chứng với các sách thì Tượng Quận chính thuộc về một phần đất của tỉnh Quảng Tây nước Tần ngày nay. Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim nói Tượng Quận là đất Bắc Kỳ có thể không đúng..
Sử gia Phạm Văn Sơn đã không đồng ý Giao Chỉ là Tượng quận, tuy nhiên ông không đưa ra những chứng minh qua sử liệu để phản bác vấn đề Giao Chỉ là Tượng quận thời Tần
Vậy qua sử sách hiện đại và cận đại, chúng ta thấy vẫn đang có những sự mâu thuẫn. Sự việc đã dẫn tới nghi vấn lớn và khó hiểu hơn nữa là xuất xứ của An Dương Vương. Nhiều giả thuyết đã nêu lên về vấn đề này,  tác giả ĐVSKTT- ông Lê Văn Hưu và sau đó là ông Ngô Sỹ Liên cùng các sử gia khác trong các thời sau - đã đặt làm một thời kỳ riêng là "Kỷ nhà  Thục, An Dương Vương" trong sử Việt. Điều này làm cho hậu thế hoang mang, vì không biết đâu là sự thật của lịch sử!
2- Giao Chỉ và Tượng quận qua thư tịch cổ (5) của nước Việt
Ngược dòng thời gian, người viết xin trích dẫn những tài liệu trong thư tịch có liên quan đến vấn đề Giao Chỉ và Tượng quận.
Phương Đình Địa Dư Chí  (PĐĐDC)của Nguyễn Văn Siêu (6),  "lần đầu in bằng chữ Hán vào năm Canh Tý (1900), niên hiệu Thành Thái thứ 12", tái bản bởi nhà xuất bản Văn Hoá - Thông Tin, trang 28: "Nhật Nam thái thú: Vua Hán Vũ đế đổi Tượng quận nhà Tần là Nhật Nam. Nhà Ngô lại đặt là quận Cửu Đức. ...".
Ông Nguyễn Văn Siêu cho là Nhật Nam thuộc về Tượng quận (Nhật Nam ở xa hơn về về phía nam so với Cửu Chân và Giao Chỉ).
Đại Nam Nhất Thống Chí (ĐNNTC) của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, nhà xuất bản Thuận Hoá, khi viết về các tỉnh miền trung châu Bắc Việt đã viết như sau (thí dụ điển hình là tỉnh Bắc Ninh)":
"Dựng đặt và diên cách. Đời Hùng Vương xưa là bộ Vũ Ninh, đời Tần thuộc Tượng quận, đời Hán thuộc quận Giao Chỉ, tức là đất hai huyện Luy Lâu và Long Biên, ....".
Các sử quan triều Nguyễn vẫn coi Bắc Việt (cổ Việt) là Tượng quận đời Tần.
Vân Đài Loại Ngữ (VĐLN) của Quế Đường Lê Quí Đôn do Phạm Vũ và Lê Hiền dịch và chú giải, xuất bản bởi nhà sách Tự Lực, trang 167:
" Đời An Dương Vương, quân nhà Tần sang đánh cướp lấy miền đất Lục-lương của Nam Việt (người Lĩnh-nam phần nhiều ở vào khoảng đất núi, tính người cương cường nên gọi là Lục Lương), đặt ra các quận: Quế -lâm; Nam hải; Tượng -quận (Quế -lâm nay là Quảng-tây; Nam-hải nay là Quảng-đông;Tượng-quận nay là nước ta).
Qua trích dẫn trên, ông Lê Quí Đôn cũng đã viết Tượng quận là cổ Việt.
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (KKĐCSTGCM hay Cương Mục) . Quốc Sử Quán Triều Nguyễn soạn thảo (1856-1881). Viện Sử Học dịch (1957-1960). Nhà xuất bản Giáo Dục (Hà Nội) ấn hành 1998. Trong quyển 1: đề tài "Hùng Vương dựng nước"  viết như sau:
Năm Đinh Hợi (214 tr.c.ng.) (Thục An Dương Vương năm thứ 44; Tần Thủy Hoàng năm thứ 33).  Nhà Tần sai Đồ Thư và Sử Lộc sang lấy đất Lĩnh Nam, đặt ra Tượng quận.
Bấy giờ nhà Tần hám đất Việt có nhiều ngọc trai và ngọc cơ, muốn chiếm lấy đặt làm quận huyện, mới bắt kẻ trốn tránh, người gửi rể và lái buôn ở các đạo đi làm lính, sai hiệu úy là Đồ Thư làm tướng, Sử Lộc thì khơi cừ lấy lối tải lương, đi sâu vào cõi Lĩnh Nam, cướp lấy đất Lục Lương, đặt ra Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đày những kẻ phải đi thú . Người Việt bấy giờ đều rủ nhau núp vào trong rừng rậm, không ai chịu để cho người Tần dùng. Lại ngầm bầu những người tài giỏi lên làm tướng, đánh nhau với người Tần, giết được hiệu úy Đồ Thư.
Lời chua:  .... Quế Lâm, Nam Hải, Tượng quận: Theo sách Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi nhà Tống, ba quận ấy là đất Bách Việt ngày trước, từ Tần Thủy Hoàng lấy được thiên hạ, mở núi dọn đường, cướp lấy đất Dương, Việt, đặt ra Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận. Bây giờ tỉnh Quảng Tây tức là Quế Lâm, tỉnh Quảng Đông tức là Nam Hải, đất Giao Chỉ tức là Tượng Quận đời Tần.". 
Các sử quan triều Nguyễn nói cổ Việt là Tượng quận thời Tần.
Việt Sử Tiêu Án, soạn giả: Ngọ Phong Ngô Thời Sỹ 1775. Dịch giả: Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu 1960. Nhà xuất bản: Văn Sử 1991. Chuyển sang ấn bản điện tử bởi: Công Đệ, Doãn Vượng, Lê Bắc 2001. Kỷ: Ngoại Thuộc: Nhà Triệu, Triệu Đà .
"Nhà Tần cho là nước Việt ta nhiều châu báu, muốn chia nước ta ra làm quận huyện, sai Hiệu úy là Đồ Thư mang quân vào sâu mãi Lĩnh Nam lấy đất Lục Lương đặt ra Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận 1. Người Việt ta đều chạy trốn vào trong rừng rậm, không chịu để cho nhà Tần dùng, ngầm đặt Kiệt Tuấn làm tướng, đương đêm đánh Đồ Thư, nhà Tần bèn mang 500 vạn dân phát vãng đi đày sang ở đó, cử Nhâm Ngao làm quan Úy ở Nam Hải, Triệu Đà là quan lệnh Long Xuyên".
Không thấy ông Ngô Thời Sỹ nói rõ về việc Giao Chỉ là một phần của Tượng quận, nhưng chữ  "nước Việt ta" và  "người Việt ta" đã nói lên việc quân Tần đã tấn công cổ Việt.
Khi nói về thời Triệu Đà ông viết như sau:
"Xét sử cũ: An Dương Vương mất nước, để quốc thống về họ Triệu, chép to 4 chữ: "Triệu Kỷ Vũ Đế". Người đời theo sau đó không biết là việc không phải. Than ôi! Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là Đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Triệu Đà khởi ở Long Xuyên, lập quốc ở Phiên Ngung, muốn cắt đứt bờ cõi, gồm cả nước ta vào làm thuộc quận, đặt ra giám chủ để cơ mi lấy dân, chứ chưa từng đến ở nước ta" .
Qua câu viết này, dù không trực tiếp viết ra, nhưng người viết cho là ông cũng đã gián tiếp công nhận Giao Chỉ nằm trong Tượng quận.
Ở cuối trang, dịch giả viết trong ghi chú 1 như sau: "1 Tượng Quận. Quận do nhà Tần đặt, song chỉ có tên, chưa có đất và chưa có bộ máy hành chính cấp quận. Xưa nay nhiều người lầm Tượng Quận bao gồm cả đất Việt Nam ngày nay."
Đại Việt Sử Ký Tiền Biên của ông (Ngô Thời Sỹ) cũng viết: "Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là Đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam".Người viết xin đặt câu hỏi về đoạn văn này.
[b]Đại Việt Sử Ký Toàn Thư[/b] (ĐVSKTT quyển 1, trang 138) viết như sau (với ghi chú số 2 và 3, của người dịch):
[i]Đinh Hợi, năm thứ 44 [214 TCN], (Tần Thủy Hoàng năm thứ 33). Nhà Tần phát những người trốn tránh, người ở rể [8b] người đi buôn, ở các đạo ra làm binh, sai hiệu úy Đồ Thư đem quân lâu thuyền, sai Sử Lộc đào ngòi vận lươngđi sâu vào đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất [b]Lục Dương [/b] (2)(7), đặt các quận Quế Lâm (nay là huyện Quý của đất Minh, Quảng Tây), Nam Hải (nay là tỉnh Quảng Đông) và Tượng Quận (tức là An Nam)  ; cho Nhâm Ngao làm Nam Hải úy, Triệu Đà làm Long Xuyên lệnh (Long Xuyên là thuộc huyện của Nam Hải), đem những binh phải tội đồ 50 vạn người đến đóng đồn ở Ngũ Lĩnh, Ngao và Đà nhân đó mưu xâm chiếm nước ta.
(Chuế tế: con trai không có tiền nộp sính lễ, lấy thân ở gửi nhà vợ nên gọi là chuế tế [ở gửi rể] như cái bướu ở mình người ta, là vật thừa. Lục Lương là người Lĩnh Nam phần nhiều ở chỗ núi rừng, trên cạn (lục), tính người mạnh tợn (cường lương) nên gọi là[b] Lục Lương [/b]). [/i]
Câu hỏi được đặt ra: Tượng Quận bao gồm cổ Việt hay ở ngoài cổ Việt ?  Đâu là sự thật của lịch sử ?
3- Tìm hiểu nguồn gốc của vấn đề.
Chúng ta cũng biết rằng, thư tịch hay các sách về sử của nước Việt chỉ được viết ra từ thời Lý. Đầu tiên là Sử Ký của Đỗ Thiện (8),  Việt Chí của Trần Chu Phổ (9), Đại Việt Sử Ký cuả Lê Văn Hưu (10)(những sách này đã bị thất lạc), Đại Việt Sử Lược của tác giả Khuyết Danh (11), ĐVSKTT của Ngô Sĩ Liên, v.v.... Những sách này đã tham khảo và lấy những sử liệu từ những bộ sử của Trung Hoa như sách Hoài Nam Tử của Hoài Nam Vương Lưu An (trình cho Hán Vũ Đế năm 139 TCN), Sử Ký của Tư Mã Thiên (năm 97 TCN), Hán Thư của Ban Cố (khoảng năm 92, là năm ông này bị chết trong ngục, bộ sử này sau đó đã được hoàn tất bởi cô em gái là Ban Chiêu), Hậu Hán Thư của Phạm Việp ( khoảng trước năm 445 là năm ông này bị giết) v.v... . Tuy nhiên khi tham khảo những sử liệu được viết từ một quốc gia "thống trị"; để viết sử cho một quốc gia đã qua một thời gian "bị trị", các sử gia phải vô cùng cẩn thận, từ việc so sánh các sử liệu về việc đồng nhất của các sự kiện, còn phải phân tách, phán đoán, lý giải để tìm hiểu sự thật của lịch sử. Vì các sử gia của quốc gia thống trị đã viết sử theo quan niệm của họ, nhiều khi đến độ sai lầm vì nhiều lý do khác nhau. Nếu những tham khảo được lấy từ những điều chủ quan hay sai lầm để viết sử nước nhà, hậu thế sẽ đọc được những sự việc trong quá khứ với đầy nghi vấn và hoang mang với câu hỏi đâu là sự thật ?
Sử gia Phạm Văn Sơn đã nêu ra vấn đề là cổ Việt (hay Giao Chỉ và Cửu Chân) không phải là Tượng quận thời Tần, dù trong các thư tịch và cổ sử của nước Việt cũng như cận và hiện đại đều nói như thế.
Người viết đã trích dẫn đoạn văn của ĐVSKTT nói về Tượng Quận: "... đặt các quận Quế Lâm (nay là huyện Quý của đất Minh, Quảng Tây)30, Nam Hải (nay là tỉnh Quảng Đông) và Tượng Quận (tức là An Nam) (3) ". 
Đoạn văn với cước chú số (3) trang 138, tập 1 viết như sau:
"3 Tượng Quận: tên quận đời Tần mà trước đây nhiều sách sử của ta và của Trung Quốc đều chú giải là quận Nhật Nam, hay bao gồm cả ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thời Hán, tức đất An Nam. Thuyết đó là dựa vào một câu cước chú của Hán Thư (q.28 hạ, tr. 11a) về quận Nhật Nam thời Hán: "Quận Nhật Nam - quận Tượng thời Tần ngày trước". Nhưng từ cuối thế kỷ XIX, thuyết đó đã bị phê phán. Chính Hán thư phần Bản Kỷ (q.7 tr.9a) chép rõ rằng: "Năm thứ 5 hiệu Nguyên Phương (76 TCN), bãi bỏ quận Tượng, chia đất". 
Dù đây chỉ là cước chú (12) trong ĐVSKTT, nhưng tài liệu này đã chỉ ra manh mối cho người viết,  đã giúp rất nhiều cho việc tìm hiểu về cội nguồn của vấn đề.
Hán Thư, quyển 28 (13) "Địa lý chí đệ bát hạ" viết về quận Nhật Nam như sau : "Quận Nhật Nam, là Tượng Quận cũ thời Tần .... . Thuộc Giao Châu"
Hán Thư, quyển 7 (14) " Thiệu Đế kỷ đệ thất" viết về việc bãi bỏ Tượng quận và chia quận này làm hai, sát nhập vào hai quận Uất Lâm và Tường Kha : "Mùa thu, bãì bỏ Tượng Quận, chia và sát nhập vào Uất Lâm, Tường Kha". 
Hai quận Uất Lâm và Tường Kha ở phía đông bắc tỉnh Quảng Tây và một phần của Tứ Xuyên, rất xa quận Nhật Nam, nên khó có thể nghĩ rằng Nhật Nam là Tượng Quận thời Tần.  Vì thế người viết nhận thấy vấn đề về "Giao Chỉ và Tượng quận" bắt nguồn từ việc tham khảo sử liệu trong Hán Thư của Ban Cố. Bộ sử này; hai quyển 7 và 28 đã nêu lên mâu thuẫn về vấn đề Tượng Quận và Giao Chỉ. Vì chỗ toạ lạc của hai địa danh này ở quá xa nhau.
Câu hỏi được đặt ra:
- Tượng Quận thời Tần nằm ở  đâu? Ở phía tây bắc Quảng Tây ngày nay; hay kéo dài xuống phía nam tới tận quận Nhật Nam, và bao gồm cả Giao Chỉ là nước Việt cổ ?
- Giao Chỉ có bị quân Tần đánh và chiếm đóng không? 
Bởi vì nếu Giao Chỉ là Tượng Quận hay nằm trong Tượng Quận thì Giao Chỉ đã bị quân Tần đánh và chiếm đóng. Còn như nếu Giao Chỉ nằm ngoài Tượng Quận thì Giao Chỉ không bị quân Tần xâm lăng, vì chỉ có thể chiếm đóng sau khi đã thành công trong việc dùng võ lực để xâm lăng.
Theo thiển ý, để hiểu rõ về một biến cố xảy ra, chúng ta cần ba yếu tố chính. Đó là nhân vật, thời gian và không gian (địa điểm). Các sử liệu đã đưa ra tên của nhân vật, thời gian, và địa điểm - nơi đã xảy ra những diễn biến này . Tuy nhiên tên những địa điểm nơi xảy ra biến cố đã bị biến đổi theo thời gian; cũng như qua các triều đại. Vì vậy, hậu thế rất khó có thể mường tượng được những nơi liên quan đến biến cố này nếu không có họa đồ để tham khảo.



1. "HanoConv1.0", "Hanosoft". Xin thành thật cám ơn các quý vị trong hội Hán Nôm đã thiết lập nên những nhu liệu này và cho phép xử dụng miễn phí. Không có các nhu liệu này thì bài viết này sẽ không thể hoàn tất!.
2. Trong ấn bản điện tử  hiện đang lưu hành trên internet ghi là "Tượng Quận (Bách Việt)". Tuy nhiên người viết thấy trong bản chính (sách), ông Trần Trọng Kim viết là " Tượng Quận (Bắc Việ)t" .
3. Lưu An viết sách Hoài Nam Tử. Người viết sẽ viết thêm về nhân vật này trong phần sau của bài viết.
4. Nhiều sách viết là Dịch Hu Tống. Người viết sẽ dùng tên này.
5. Người viết mạn phép gọi là "thư tịch cổ" cho những tài liệu từ thời nhà Nguyễn trở về trước là những thư tịch viết bằng Hán tự.
6. Nguyễn Văn Siêu sinh năm Kỷ Mùi ( 1799), tự là Tốn Ban, hiệu là Phương Đình, người làng Lủ ( Kim Lũ), huyện Thanh Trì, Hà Nội. Văn nhân nổi tiếng cùng  thời với Cao Bá Quát với câu đối khen tặng của vua Tự Đức:
"Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán,
Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường"
Tùng: Tùng Thiện vương. Tuy: Tuy Lý Vương.
7. (2) ĐVSKTT :  Đây viết là Lục Dương, cuối câu viết là Lục Lương .
Sử Ký của Tư Mã Thiên trong “Nam Việt Úy Đà liệt truyện viết là Dương Việt. Cũng trong Sử Ký, phần Tần Thủy Hoàng bản kỷ viết là Lục Lương. Vậy theo thiển ý, tác giả ĐVSKTT gồm hai chữ Lục Lương và Dương Việt thành chữ Lục Dương ở đây.
8. Sử Ký của Đỗ Thiện được viết sau năm 1135, khoảng dưới triều Lý Anh Tông (1138-1175).
9. Quyển sử này được viết trước sách Đại Việt Sử Ký (1272) của Lê Văn Hưu.
10. Đại Việt Sử Ký (ĐVSK) của Lê Văn Hưu, gồm 30 quyển, hoàn tất năm 1272.
11. Đầu thời nhà Trần, người viết phỏng đoán là sách này được viết trong khoảng thời gian từ 1234 đến 1258.
12.  Trang mở đầu của bộ ĐVSKTT : " ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ. Bản in Nội các quan bản. MỘC BẢN KHẮC NĂM CHÍNH HÒA THỨ 18 (1697). tập 1. Lời giới thiệu: Giáo sư Viện sĩ: Nguyễn Khánh Toàn. Khảo cứu về tác gỉa, văn bản và tác phẩm: Giáo sư Phan Huy Lê. Dịch và chú thích: Ngô Đức Thọ. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn. NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI, HÀ NỘI - 1998
13.http://www.chinaknowledge.de/Literature/Historiography/hanshu.html
"Nhật  Nam quận, cố Tần Tượng quận, Vũ Đế Nguyên  Đỉnh lục niên khai, cánh danh .  Hữu tiểu thuỷ thập lục, tịnh hành  tam thiên nhất bách bát  thập lí (3110 dặm).  Thuộc Giao Châu" .
14.  Hán Thư quyển thất. Thiệu Đế kỷ đệ thất :  "thu ,  bãi Tượng quận,  phân thuộc Uất Lâm, Tường Kha".Hán thư của Ban Cố, quyển 7 viết:[i] "Thu , bãi Tượng  Quận, phân  thuộc Uất  Lâm,Tường  Kha [/i]

 bài 2: 


4- Quân Tần mang quân đi đánh Bách Việt từ lúc nào?  
Sau khi gồm thâu sáu nước để thống nhất Trung Hoa năm 221BC, Tần Thủy hoàng muốn mở rộng đế quốc. Về hướng nam Trung Hoa, Thủy hoàng đã ra lệnh cho Đồ Thư mang quân đi chinh phục Lĩnh Nam.
Như đã trích dẫn trong ĐVSKTT trong phần trên cùng với sách Sử Ký của Tư Mã Thiên, Tần Thủy Hoàng bản kỷ, dịch giả Nhữ Thành : “Năm thứ 33 (214TCN),Thủy Hoàng đưa những người thường trốn tránh,những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương,lập thành Quế Lâm,Tượng Quận,Nam Hải cho những người bị đi đày đến đấy canh giữ”(1).
Qua đoạn sử liệu trên chúng ta chỉ biết là năm 214 TCN, nhà Tần coi như đã chiếm được một vùng đất ở Lĩnh Nam, đặt làm 3 quận. Tuy nhiên sử liệu này đã không nói là quân Tần bắt đầu mang quân vào Lĩnh Nam từ lúc nào.
Để biết lúc nào quân Tần bắt đầu xâm lăng, “Nam Việt Úy Đà liệt truyện"  (Sử Ký) viết: “...Vua Nam Việt họ Triệu tên là Đà người huyện Chân Định, trước làm quan úy. Bấy giờ nhà Tần đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đưa những người bị đày đến ở lẫn với người Việt.  Như thế đã mười ba năm. Thời Tần, Đà được làm lệnh ở huyện Long Xuyên, thuộc quận Nam Hải”.
Câu dịch “Như thế đã mười ba năm" rất khó hiểu, vì câu viết có tính cách tương đối, 13 năm so với thời điểm nào? Vì việc này, người viết xin trích dẫn sách Sử Ký với tam gia chú- quyển 113- Nam Việt Uý Đà liệt truyện: “Tập giải Từ Quảng viết :“Tần tịnh thiên hạ, chí Nhị Thế nguyên niên (209 TCN) thập tam niên. Tịnh thiên hạ bát tuế (8 năm), nãi bình Việt địa, chí Nhị Thế nguyên niên lục niên (214 TCN) nhĩ".
Qua lời chú này, chúng ta thấy là khi nhà Tần chiếm xong 6 nước kể từ năm Nhị Thế nguyên niên (209 TCN) là 13 năm: 209 +(13-1)(2) = 221 TCN. Phù hợp với việc "biên niên" trong chính sử Trung Quốc.
Nhà Tần “bình Việt địa"  trong 8 năm, tới năm thứ sáu thời Nhị Thế là năm 214 TCN. Vậy nhà Tần bắt đầu chuẩn bị  sự bành trường đế quốc nhà Tần là : 214 + (8 -1) = 221 TCN.  Tuy nhiên người viết nhận thấy là khi vừa chiếm xong sáu nước, Thủy Hoàng đế phải có một thời gian để chuẩn bị quân đội, như việc "bắt lính" từ các nước vừa chiếm như “đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn" (ĐVSKTT)  cũng như lương thực cho đạo quân nam chinh này.
Vì  thế, người viết nghĩ là một năm sau, đó là năm  220 TCN , thời điểm này quân Tần mới có đủ thời gian để mang quân đi xâm lăng Bách Việt
5- Địa điểm đóng quân của quân Tần
Quân Tần đóng quân ở chỗ nào?
Không thấy các bộ chính sử nói rõ về việc này, chỉ viết vắn tắt là Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư mang 500 ngàn quân vượt Ngũ Lĩnh (?) để xâm chiếm Lĩnh Nam (?).
ĐVSKTT: “Đinh Hợi, năm thứ 44 [214 TCN], (Tần Thủy Hoàng năm thứ 33)Nhà Tần phát những người trốn tránh, người ở rể người đi buôn, ở các đạo ra làm binh, sai hiệu úy Đồ Thư đem quân lâu thuyền, sai Sử Lộc đào ngòi vận lương, đi sâu vào đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất Lục Dương… 
...đem những binh phải tội đồ 50 vạn người đến đóng đồn ở Ngũ Lĩnh”.
a. Sách Hoài Nam Tử (3)
Tuy nhiên có một tài liệu khá lý thú đã nói về nơi chốn quân Tần đồn trú, cũng như những biến cố trong chiến dịch này, dù rất sơ lược, nhưng rất là quý giá. Đó là sách Hoài Nam Tử của Lưu An, quyển 18, chương "Nhân Gian Huấn", có đoạn đã viết về việc này như sau (4):
Kiến kỳ truyện viết: "Vong Tần giả, hồ dã ". Nhân phát tốt ngũ thập vạn, sử Mông công - Tương ông tử tướng, trúc tu thành, tây thuộc Lưu Sa, bắc kích Liêu thuỷ, đông kết Triều Tiên, Trung quốc nội quận vãn xa nhi hướng chi. Hựu lợi Việt chi tê giác - tượng xỉ -phỉ thuý - châu cơ, nãi sử uý Đồ Tuy (Nôm: Thư) phát tốt ngũ thập vạn, vi ngũ quân, nhất quân tái Đàm Thành chi lĩnh, nhất quân thủ Cửu Nghi chi tái, nhất quân xử (xứ) Phiên Ngu (Phiên Ngung) chi đô, nhất quân thủ Nam Dã chi giới, nhất quân kết Dư Can chi thuỷ, tam niên bất giải giáp trì nỗ. Sử Giám Lộc vô dĩ chuyển hướng, hựu dĩ tốt tạc cừ nhi thông lương đạo, dĩ dữ Việt nhân chiến, sát Tây Ẩu (Nôm: Âu) quân Dịch Hu Tống. Nhi Việt nhân giai nhập tùng bạc trung, dữ cầm thú xứ, mạc khẳng vi Tần lỗ. Tương trí kiệt tuấn dĩ vi tướng, nhi dạ công Tần nhân, đại phá chi, sát uý Đồ Tuy (Nôm: Thư), phục thi lưu huyết số thập vạn. 
Tạm dịch (5):
...
Truyện xưa viết: "Nhà Tần vong, tại sao vậy". Nguyên nhân là sai Mông công (Mông Điềm) và Tương ông đưa 50 vạn quân xây trường thành.  Phía tây thì chiếm Lưu Sa, phía bắc thì đánh Liêu, phía đông thì liên kết với Triều Tiên, các quận của Trung quốc phải kéo xe đi chinh chiến.
Lại ham những món lợi như sừng tê giác, ngà voi, ngọc phỉ thúy, trân châu, nên sai quan úy là  Đồ Thư mang 50 vạn quân, chia làm 5 đạo đi xâm chiếm (Bách Việt). Một đạo đóng ở Đàm Thành, một đạo phòng thủ ở Cửu Nghi là chỗ hiểm yếu, một đạo đóng ở Phiên Ngung làm đô thành, một đạo đóng ởNam Dã là nơi biên giới, một đạo đóng ỡ sông Dư Can. Ba năm quân không cởi giáp, lúc nào cũng phải mang theo cung nỏ. Sử Lộc (6) không tìm được hướng (để tiến quân), mới tuyển lính đào kinh để chuyển binh lương đánh người (Bách) Việt, giết vua Tây Âu là Dịch Hu Tống. Vì vậy người (Bách) Việt  vào rừng rậm sống chung cùng muông thú, không chịu để quân Tần bắt làm tù binh. Ho kén chọn ngưòi tài trí và kiệt tuấn làm tướng, cứ đến đêm tối tấn công quân Tần,  đạt được chiến thắng lớn, giết quan úy Đồ Thư, quân Tần chết cả chục vạn.
Địa danh và sự việc đã được sách Hoài Nam Tử nói qua, những điều này, người viết xin lần lượt trình bày qua những tham khảo, suy luận cùng những phỏng đoán của cá nhân trong phần sau.
Trước khi tìm hiểu về những địa danh và sự kiện được nêu lên trong tài liệu này, người viết xin nói sơ lược về tiểu sử tác giả sách Hoài Nam Tử, hầu chúng ta có thể biết thêm về thời điểm lúc quyển sách này ra đời.
Tác giả sách Hoài Nam Tử là Hoài Nam Vương Lưu An, ông là cháu của Hán Cao Tổ Lưu Bang (gọi Lưu Bang bằng ông), con của Lưu Trường, em họ (?) của Hán Cảnh Đế Lưu Khải (156 TCN – 141 TCN)  và là chú họ (?) của Hán Vũ Đế Lưu Triệt (140 TCN – 87 TCN). Được phong làm Hoài Nam Vương ở vùng sông Hoài (7) (tỉnh An Huy ngày nay). Ông sinh năm 179 TCN, ông tự sát năm 122 TCN (hay 123 TCN?) vì có ý định mưu phản Hán Vũ đế, nhưng sự việc bị tiết lộ. Lưu An là người đã dâng biểu can Hán Vũ đế về việc nhà Hán định đánh Mân Việt khi Triệu Văn Vương của nước Nam Việt là Triệu Hồ (con Trọng Thủy, cháu Triệu Đà) trình cho Hán Vũ đế biết việc Mân Việt mang quân đánh Nam Việt (135 TCN).
Sách Hoài Nam Tử là bộ sách của Đạo gia, được viết bởi tám học giả ở vùng Hoài Nam gọi là Hoài Nam bát tiên, dưới sự chỉ đạo của Hoài Nam Vương Lưu An. Sách này được trình cho Hán Vũ Đế xem năm 139 TCN. Sách này ra đời trước cả bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên (145 TCN - 93 TCN, đây là bộ chính sử sớm nhất của Trung quốc, hoàn tất năm 97 TCN).  Nhà Tần đặt Lĩnh Nam thành quận huyện năm 214 TCN, sách Hoài Nam Tử hoàn tất năm 139 TCN, được viết sau biến cố này 75 năm, tương đối khá ngắn so với chiều dài của lịch sử, nên người viết nhận thấy sự khả tín khá cao, hơn nữa có lẽ đây là sách duy nhất nói về việc này còn lưu truyền. Vì thế sự tìm hiểu về việc tiến quân của quân Tần được đặt căn bản theo đoạn văn đã trích dẫn ở trên của sách Hoài Nam Tử.
Qua sử liệu, chúng ta biết quân Tần vượt Ngũ Lĩnh để xâm chiếm Lĩnh Nam. Câu hỏi được đặt ra là Ngũ Lĩnh và Lĩnh Nam ở đâu so với địa danh ngày nay.
b. Ngũ Lĩnh và Lĩnh Nam

Bản đồ số 1 - Ngũ Lĩnh (ngày nay là Nam Lĩnh)
 
 
Bản đồ số 2- Ngũ Lĩnh-chi tiết
Ngũ Lĩnh
Là rặng Nam Lĩnh ngày nay, gồm 5 rặng núi nằm kế nhau theo hướng đông bắc, từ phía tây qua đông theo thứ tự như sau:
Việt Thành lĩnh (Yuechengling  )
Đô Bàng  lĩnh (Dupangling  )
Minh Chử lĩnh (Mengzhuling  )
Kỵ Điền lĩnh (Qitianling  )
Đại Du (Dữu) lĩnh (Dayuling  )
Rặng Ngũ Lĩnh kéo dài từ phía bắc tỉnh Quảng Tây sang đến một phần phía bắc tỉnh Quảng Đông. Ngũ Lĩnh phân chia ranh giới các tỉnh Hồ Nam - Quảng Tây, Hồ Nam - Giang Tây - Quảng Đông, thành hai vùng địa lý khác biệt.
Phía bắc Ngũ Lĩnh, tỉnh Hồ Nam có sông Tương theo hướng nam- bắc chảy vào hồ Động Đình và sông Dương Tử. Sông Cám (hay Cống giang) cũng theo hướng nam - bắc chảy vào hồ Bá Dương.
Phía nam, ở tỉnh Quảng Tây có sông Li  theo hướng bắc - nam chảy vào sông Chu.  Quảng Đông có sông Bắc cũng theo hướng bắc – nam chảy vào sông Tây (Tây giang).
Rặng Ngũ lĩnh không cao, trung bình từ 1000 tới 1500 mét (khoảng 3300 tới 5000 feet). Tuy nhiên rất hiểm trở và khó vượt qua bằng đường bộ.
Những quan ải tại Ngũ Lĩnh
Sử Ký, Nam Việt Úy Đà liệt truyện: " (Nhâm) Ngao chết, Đà lập tức truyền hịch bảo các cửa quan Hoành Phố, Dương Sơn, Hoàng Khê rằng:  Quân giặc sắp đến, phải chặn ngay đường, tụ tập quân sĩ để tự bảo vệ".
Hoành Phổ quan, là Mai quan ngày nay (Meiguan) (8). Đây là một cửa ải quan trọng bậc nhất trên rặng Ngũ Lĩnh từ Hoa hạ đến Lĩnh Nam. Ngày nay tại đây vẫn còn một thị xã nhỏ sát ranh giới Giang Tây và Quảng Đông mang tên này. Từ Mai quan tới thị xã Nam Hùng tỉnh Quảng Đông khoảng 30 km ( 19 dặm). Thời Tần có tên là Hoành Phổ quancửa quan này nằm trên Đại Du (Dữu) lĩnh là một trong Ngũ Lĩnh, rất hiểm trở khó qua lại. Thời Đường gọi là Tần quan. Năm 716, Tể tướng Trương Cửu Linh (9) mở rộng thêm bằng cách đục đá xuyên qua núi bên dưới lối đi cũ để bớt độ dốc và lát gạch cho dễ qua lại. Phía bắc cửa ải có khắc hàng chữ "Nam Việt Hùng quan", phía nam có khắc hàng chữ "Lĩnh Nam Đệ Nhất quan".
Dương Sơn quan (10)  ở phía đông nam Kỵ Điền lĩnh,  gần Liên giang ( Lian jiang). Ngày nay thuộc huyện Dương Sơn (Yangshan), Thanh Viễn thị, góc tây bắc tỉnh Quảng Đông.
Hoàng Khê quan  ở phía nam Kỵ Điền lĩnh, gần núi Hoạt Thạch, chỗ  3 con sông hợp lại  là Bắc Giang (Beijiang), Liên giang ( Lianjiang) và Ống giang (Wengjiang) . Ngày nay thuộc huyện Anh Đức (Yingde), Thanh Viễn thị (Qingyuan), phía bắc đô thị Quảng Châu.
Ngoài những ải trên được ghi lại trong Sử Ký, còn có Ly Thủy quan là chỗ Sử Lộc đào kinh Linh Cừ thông thủy đạo từ Tương giang nối với Ly giang để chuyển lương trong chiến dịch xâm chiếm Lĩnh Nam.
Lĩnh Nam.
Địa thế:  Lĩnh Nam là  vùng đất phía nam của rặng Ngũ Lĩnh. Tuỳ theo sự giải đoán của từng người hay nói chung là tùy theo quan niệm của từng dân tộc. Người Trung Quốc gọi vùng Lĩnh Nam là đất của người Bách Việt gồm Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến và phía nam của Chiết Giang (vùng đất của các nước cổ thời là Mân Việt và Đông Việt). Người Việt Nam gọi Lĩnh Nam là vùng đất gồm Quảng Tây, Quảng Đông và Cổ Việt là Bắc Việt ngày nay, vì trong cổ sử của nước Việt nói về cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng như sau: ĐVSKTT:" Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:... Cho nên Trưng Nữ Vương tuy đánh lấy được đất Lĩnh Nam, nhưng không giữ được nơi hiểm yếu ở Ngũ Lĩnh, rốt cuộc đến bại vong" cũng như truyện "Lĩnh Nam Chích Quái"của Trần Thế Pháp. Trong khi đó học giả Tây Phương (11) nói Lĩnh Nam chỉ gồm có hai tỉnh là Quảng Tây và Quảng Đông. Tuy nhiên, nếu hiểu một cách phổ quát thì Lĩnh Nam là vùng đất phía nam của Ngũ Lĩnh, gồm Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến, đảo Hải nam, phía nam Chiết Giang và Bắc Việt Nam ngày nay. Vùng đất có các sắc dân không thuộc Hán tộc, khác hẳn về ngôn ngữ, phong tục và văn hoá với dân vùng Hoa Bắc và Hoa Nam thời cổ.
Phía tây Lĩnh Nam là vùng cao nguyên của hai tỉnh Vân Nam và Quý Châu, cũng là phía tây của tỉnh Quảng Tây với rặng Ô Mông sơn (Wumeng shan) và Lục Chiếu sơn (Liuzhao shan (sát với biên giới Việt Nam- Vân Nam và Quảng Tây). Đây là những rặng núi tương đối khá cao để có thể phân biệt về ranh giới thời cổ. Phía đông bắc Lĩnh Nam là các rặng núi Vũ Di sơn, Tải Vân Sơn và Liên Hoa Sơn, phân chia hai vùng Lĩnh Nam và Dương Việt (huyện Mân Trung thời Tần). Phía đông và  phía nam của Lĩnh Nam giáp biển Nam Hải.
Vùng Lĩnh Nam có sông lớn thứ 3 của Trung Quốc là Tây Giang sau Hoàng Hà và Dương Tử (Trường giang), Đây là thủy đạo chính của vùng Lĩnh Nam. Sông này tùy từng đoạn đã được đặt bằng những tên khác nhau. Các đoạn sông này nối tiếp với nhau từ tây qua đông theo thứ tự sau: Nam Bàn giang (tên cổ thời là sông Tường Kha) - Hồng Thủy hà, Tây giang và Chu giang là đoạn nối với biển Nam Hải.
Sông Tây giang có những chi lưu chính ở phía bắc như Bắc Bàn giang, Liêu giang, Li giang, Bắc giang và Đông giang. Những chi lưu ở phía nam như Hữu giang và Tả giang (phát nguyện từ bắc Việt Nam) hợp lại là Uất giang, chảy vào Tây giang.
Khí hậu Lĩnh Nam khác hẳn với khí hậu Hoa hạ. Phía bắc Ngũ Lĩnh lạnh và khô, nhiều khi mùa đông có tuyết, nhưng phía nam Ngũ Lĩnh – Lĩnh Nam- thì ấm áp quanh năm, đây là vùng khí hậu nhiệt đới. Nhiệt độ thay đổi từ 10°C (tháng 11, 12, 1, 2) đến 30°C (tháng 5, 6, 7, 8). Thời gian trồng cấy từ 250 đến 320 ngày trong một năm ( nhiệt độ tối thiểu để có thể cấy lúa là 10°C). Lĩnh Nam có nhiều mưa, tháng 5, 6, 7, 8 là mùa mưa, cao điểm là tháng 6, vũ lượng lên tới 25cm (10 inches). Vũ lượng cho cả năm khá cao, 170 cm (67 inches) tại Quảng Châu, 200 cm (80 inches) tại Hồng Kông, 180 cm (71 inches) tại Hà Nội.
Lịch sử:  Trước khi quân Tần theo lệnh của Tần Thủy Hoàng đi mở rộng đế quốc nhà Tần về phía nam, Lĩnh Nam không có những liên hệ nào đáng kể với vùng Hoa Hạ, ngoại trừ những việc giao thương rất lẻ tẻ qua những vùng có thể đi bằng đường bộ (12). Sự qua lại cực kỳ chật vật vì phải vượt qua những đường đèo hiểm trở tại rặng Ngũ Lĩnh. Văn hoá của Trung Quốc chưa xâm nhập vào vùng Lĩnh Nam. Về phía đông bắc, sau khi nước Sở và Tề xâu xé nước Việt của Câu Tiễn (13) năm 333 TCN, hậu duệ của vua Việt và một số dân Việt chạy về phía nam là hai tỉnh Chiết Giang và Phúc Kiến. Tại đây hai nước nhỏ được lập nên là Đông Việt và Mân Việt, vùng này được gọi chung là Dương Việt. Phía tây bắc của Lĩnh Nam có nước Dạ Lang thuộc tỉnh Quý Châu, phía tây Lĩnh Nam có nước Điền ở vùng hồ Điền Trì sát đô thị Côn Minh, tỉnh Vân Nam ngày nay. Mới đây các nhà khảo cổ đã khai quật được 118 di chỉ của nước Điền, từ những di chỉ này, chúng ta biết dân nước Điền rất điêu luyện về cách đúc đồng thau (bronze) (14) lúc cổ thời. Tại trung tâm của Lĩnh Nam có nước Tây Âu là một nước khá lớn, nước này đã chống trả lại đội quân nam chinh của Tần Thủy Hoàng một cách kịch liệt. Phía cực nam của Ngũ Lĩnh là nước Âu Lạc tức là Giao Chỉ hay nước Việt Nam thời cổ.
Các sắc tộc:  Lĩnh Nam (Quảng Đông, Quảng Tây và cổ Việt) gồm nhiều sắc tộc, người Hán gọi chung là người Bách Việt, gồm nhiều bộ tộc đã định cư ở đây từ lâu đời. Cổ thời, trước khi nhà Tần mang quân xâm chiếm, Lĩnh Nam có hai sắc tộc chính  thuộc chủng tộc Thái là Tráng (15) (Zhuang) ở vùng Quảng Tây và Quảng Đông, Lê (16)  (Li) ở vùng bán đảo Lôi Châu (Leizhou) và ven đảo Hải Nam (17).  Xa về phía nam là chủng tộc Lạc Việt tại vùng Âu Lạc.  Sau này lại có các sắc tộc thiểu số khác di dân đến đây sinh sống như người H’Mông(18), người Dư (19), Di tộc (Lô Lô) (20), người Dao (21) v.v…
Dân số Lĩnh Nam:
Theo như Hán Thư, Điạ Lý chí của Ban Cố thì các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, cộng lại được 215,448 nhà, và số nhân khẩu là 1,272,390 (22) người. Đây là dân số Lĩnh Nam theo thống kê thời Tiền Hán (206 TCN – 9 ).
Nước cổ Việt (Âu Lạc) gồm ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam tổng cộng là 143643 nhà và 981,835 người.
Vùng Quảng Tây và Quảng Đông gồm 4 quận Nam Hải, Hợp Phố, Thương Ngô và Uất Lâm là 71,805 nhà và 390,555 người.
Tỷ lệ dân số cổ Việt nhiều hơn 2.5 lần so với dân số hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây 
Tuy nhiên, không phải tất cả dân chúng tham gia kiểm kê, nên người viết phỏng đoán là dân số Lĩnh Nam ở đầu thế kỷ thứ nhất có  khoảng 2 triệu người. Ngược lại 2 thế kỷ, trước khi nhà Tần sang xâm chiếm,  người viết phỏng đoán dân số tại Lĩnh Nam có khoảng 1.5  triệu người: 500 ngàn tại vùng Quảng Tây và Quảng Đông (23), 1 triệu người tại cổ Việt.
c. Những địa điểm đóng quân
Sau vài nét đại cương về Ngũ Lĩnh và Lĩnh Nam, người viết xin trình bày từng địa điểm đồn trú của quân Tần, mà sách Hoài Nam Tử đã viết. Những vị trí này được truy tầm qua các tài liệu cổ của Trung Quốc như: Sử  Ký, (Tiền) Hán thư, Hậu Hán thư, Tấn thư, Thủy Kinh chú, Thủy Kinh chú sớ,  cùng với bản đồ của Trung Quốc và các phương tiện truyền thông tinh vi ngày nay như "Internet và ""Google Earth". Sau đó sẽ phỏng đoán đường hành quân đặt căn bản qua các tài liệu trên, để chúng ta có một khái niệm tổng quát về chiến dịch xâm lăng Bách Việt của quân Tần.
Đàm Thành
Theo Hậu Hán thư của Phạm Việp, "Chí đệ thập nhị", "Quận quốc tứ" (24) thì Đàm Thành là một huyện của quận Vũ Lăng thời Hán (quận Kiềm Trungthời Tần). Thời Hậu Hán, Hán Quang Vũ chia quận này ra làm 6 huyện. Đàm Thành là một trong 6 huyện, tọa lạc tại phía tây nam của quận Vũ Lăng.
Sách Thủy Kinh chú (bản dịch trong "Thủy Kinh Chú Sớ" của ông Nguyễn Bá Mão, quyển 37, trang 483): "Sông Ngân Thủy ra từ khe Nguyên Thủy ở biên giới phía bắc huyện Tầm Thành (25) (nv: Đàm Thành, xin coi ghi chú) quận Vũ Lăng".
Quận Vũ Lăng, theo Hán Thư của Ban Cố, "Địa lý chí", quyển 28 hạ (26), thì Vũ Lăng là một trong các quận của nước Sở ngày trước.
Theo như bản đồ ngày nay thì quận lỵ của Vũ Lăng là Hoài Hoá thị ở phía tây tỉnh Hồ Nam của Trung Quốc, phía nam rặng núi Vũ Lăng. Hoài Hoá thị có sông khá lớn là Nguyên giang (27) chảy qua. Sông này bắt nguồn từ  ranh giới Quý Châu, Quảng Tây và Hồ Nam, chảy về hướng đông-bắc đổ nước vào vùng hồ Động Đình.
Đàm Thành toạ lạc tại Tịnh huyện (Tịnh châu Miêu tộc đồng tộc tự trị huyện), thuộc Hoài Hóa thị (Huaihua), phía tây nam tỉnh Hồ Nam, là một trong 12 thành của quận Vũ Lăng thời Hán (quận Kiềm Trung thời Tần).
Người viết phỏng đoán thành này nằm trên bờ sông Nguyên, là thị trấn Tịnh Châu (Jing Zhou) của tỉnh Hồ Nam ngày nay. Vì đây là một vùng phẳng duy nhất để có thể đủ chỗ cho 100 ngàn quân trú đóng và tiện việc vận chuyển quân lương bằng đường thủy.


Bản đồ số  3 - 3 trong 5 địa điểm đồn trú của quân Tần: Đàm Thành, Cửu Nghi, Nam Dã
Cửu Nghi
Theo Hậu Hán thư của Phạm Việp, "Chí đệ thập nhị", "Quận quốc tứ" (28) thì Cửu Nghi là một vùng núi ở quận Linh Lăng.
Sách Thủy Kinh chú (bản dịch trong "Thủy Kinh Chú Sớ" của ông Nguyễn Bá Mão, quyển 38, trang 519) (29): “… Lại chảy về phía đông bắc, qua phía tây huyện Tuyền Lăng.Sông Doanh Thủy ra từ núi Lưu Sơn ở phía nam huyện Linh Đạo quận Doang Dương, chảy về phía tây đi qua dưới núi Cửu Nghi, chân núi uốn khúc khắp đồng Thương Ngô, ngọn núi mọc cao vút trong khoảng mấy quận. Núi bày ra chín ngọn, một ngọn dẫn một con suối, núi khe hiểm trở, núi tuy khác nhau, nhưng hình thế giống nhau, làm cho du khách nghi hoặc, cho nên gọi là núi Cửu Nghi ”.
Cửu Nghi Sơn:  địa danh này ngày nay vẫn còn. Tọa lạc Vĩnh Châu thị (Yongzhou), cách huyện Ninh Viễn (Ningyuan) khoảng 15 km (chừng 10 miles) về phía nam, nằm gần cực nam tỉnh Hồ Nam, một trong những núi thuộc Minh Chử lĩnh (sát ranh giới Hồ Nam - Quảng Đông). Đỉnh cao nhất  là núi Phấn Cơ (Fenji -1959m). Phía bắc chân núi này vẫn còn một thị xã nhỏ có tên là Cửu Nghi.
Phía đông núi Cửu Nghi có sông Xuân Lăng, sông này thông với Tương giang ở phía bắc tại thị trấn Hành Dương (Hengyang-tỉnh lớn thứ nhì của tỉnh Hồ Nam sau Trường Sa).
Bên bờ sông Xuân Lăng ngày nay có thị trấn Lam Sơn (Lanshan) tương đối khá phẳng Người viết phỏng đoán là một đạo quân Tần đã đóng ở đây để tìm cách vượt Ngũ Lĩnh.
Phiên Ngung

Bản đồ số 4 - 1 trong 5 địa điểm đồn trú của quân Tần: Phiên Ngung
Điạ danh này đã được nói tới trong Sử Ký của Tư Mã Thiên - "NamViệt Úy Đà liệt truyện" ba lần.  Đây là kinh đô của nưóc Nam Việt thời Triệu Đà. Khi quân nhà Hán mang quân sang đánh Nam Việt (thời Triệu Ai vương là vua chót của nhà Triệu -112 TCN). Sử Ký, bản dịch của Nhữ Thành : " Sau quân Việt mở thẳng đường, mang lương thực người Việt đem quân đánh bọn Thiên Thu, diệt được họ cách Phiên Ngung bốn mươi dặm,...Năm thứ năm niên hiệu Nguyễn Đỉnh (năm 112 trước Công nguyên.....đưa quân từ đất Dạ Lang xuống đường sông Tường Kha. Các quân ấy đều gặp nhau ở Phiên Ngung.....Năm thứ sáu niên hiệu Nguyễn Đỉnh (năm 111 trước Công nguyên), mùa đông..... Phục Ba cùng quân của Lâu thuyền họp lại mới có được hơn nghìn người, bèn cùng tiến. Quân của Lâu thuyền đi trước đến Phiên Ngung, Kiến Đức cùng Gia đều giữ thành.
Tuy nhiên, trong các cổ sử của Trung Quốc, nếu phiên dịch ra Hán Nôm thì đều gọi là Phiên Ngu. Như đã trích dẫn trong sách Sử Ký, quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận được thành lập thời Tần. Sau khi Hán Vũ đế chiếm Nam Việt (111 TCN), đặt Nam Hải là một quận của Giao châu.
Hán thư của Ban Cố viết: Nam Hải là một trong 7 quận thời Tiền Hán (30) thuộc Giao châu, đất của Triệu Đà, Phiên Ngung là thủ đô. Giao châu gồm các quận: Thương Ngô - Uất lâm - Hợp Phố - Giao Chỉ - Cửu Chân - Nam Hải - Nhật Nam. Nam Hải là đất của người (Bách)Việt. Sau đó (cũng năm 111 TCN) đã đặt thêm hai quận là Đam Nhĩ và Chu Nhai (31) ở đảo Hải Nam.
Hậu Hán thư của Phạm Việp viết là Phiên Ngung thuộc quận Nam Hải (32), là một trong những quận thuộc Giao châu thời Hán
Theo Tấn thư, Phiên Ngung (Ngu) là một trong 6 huyện của quận Nam Hải. Quận Nam Hải gồm có Phiên Ngung, Tứ Hội, Tăng Thành, Bác La, Long Xuyên và Bình Di (33).
Qua những trích dẫn trên, chúng ta biết là Phiên Ngung nằm ở thị trấn Quảng Châu thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay, tại đây đã tìm được mộ phần của Nam Việt Văn Vương Triệu Hồ (137 TCN -125 TCN).
Phiên Ngung (Ngu) ngày nay vẫn còn tên và là một chi khu trong đô thị Quảng Châu. Nếu tra cứu trong bản đồ thì Phiên Ngung ( Panyu) là một trong 12 đơn vị hành chính của tỉnh Quảng Châu, phía đông nam, kế cận với xa lộ vòng quanh đô thị này.
Một trong 5 đạo quân Tần (mà người viết phỏng đoán là dưới sự lãnh đạo của Nhâm Ngao) đã vượt Ngũ Lĩnh đến đây chiếm đóng. Đạo quân không gặp sức kháng cự nào đáng kể của dân Bách Việt.
Nam Dã
Hậu Hán thư của Phạm Việp, "Chí đệ thập nhị", "Quận quốc tứ" viết (34)Nam Dã là một huyện của quận Dự Chương. Huyện này được đặt ra từ thời Cao đế nhà Tiền Hán (Hán Cao Tổ Lưu Bang, 206 TCN - 195 TCN).
Quận Dự Chương có những huyện : Nam Xương, Kiến Thành, Tân can, Nghi Xuân, Lư Lăng, Cám (hay Cống), Vu Đô, Nam Dã, Nam Thành, Bá Dương, Lịch Lăng, Dư Hãn, Bành Trạch, Bành Lãi, Thạch Dương, Lâm Nhữ, Kiến Xương, Sài Tang, Ngải, Hải Hôn hầu quốc, Bình Đô hầu quốc.
Tấn thư viết Nam Dã là một huyện của quận Lư Lăng. Quận này do nhà Ngô dựng lên thời Tam Quốc (35) (220 - 280)
Sách Thủy Kinh chú (bản dịch trong "Thủy Kinh Chú Sớ" của ông Nguyễn Bá Mão, quyển 39, trang 655) (36): " Sông Cống (Cám ) Thũy ra từ phía tây huyện Nam Dã quận Dự Chương, chảy về phía bắc qua phía đông huyện Cống.
Ban Cố gọi là huyện Nam Dã, nơi sông Bành Thủy chảy ra, chảy vào phía đông vào sông Hồ Hán.....Lưu Trừng Chi nói:... Sông Dự Chương dẫn nguồn chảy về phía đông bắc, đi qua phía bắc huyện Nam Dã".
Sông Dự Chương mà Ban Cố viết là Cám (Cống) giang ngày nay.
Huyện Nam Dã quận Dự Chương thời Tần ở về phía cực nam tỉnh Giang Tây, thuộc Tráng (Cám) Châu thị ( Ganzhou shi), thị trấn Tráng (Cám) Châu, phía đông bắc của Mai quan  (thời Tần là Hoành Phổ quan) thuộc Dại Du lĩnh, tọa lạc trên bờ đông nam của Cám (Cống) giang. Sông này là thủy lộ chính theo hướng bắc-nam của tỉnh Giang Tây.
Một đạo quân khác đến đồn trú tại Nam Dã, sau khi đạo quân trước đã tiến vào Lĩnh Nam và chiếm đóng Phiên Ngung.
Dư Can 

 
Bản đồ số 5 - 1 trong 5 địa điểm đồn trú của quân Tần: Dư Can
Trước khi tìm hiểu về vị trí của địa danh này, người viết xin trình bày một vấn đề về từ ngữ có liên quan đến chữ "can", vì chữ này đã gây trở ngại rất nhiều cho người viết trong việc tra cứu.
 phiên dịch là "Dư Can", bản sao lại là chữ  Hán phồn thể, nên chỉ có thể dịch là "Dư Can". Nếu chữ  là giản thể thì có thể dịch là "Dư Can" hay "Dư Hãn". Nếu chữ   thêm bộ "thủy" thành chữ  thì có thể phiên dịch chữ Hán phồn thể là "can" hay "hãn"
Các bộ cổ sử như Hậu Hán thư, Tấn thư viết là :  , có thể phiên dịch là "Dư Can" hay "Dư Hãn". Dù cổ sử được viết như thế, nhưng người viết không thể phỏng đoán một cách vô căn cứ là sách Hoài Nam Tử viết chữ "can" thiếu bộ "thủy", để có thể đọc là "hãn" cho phù hợp với cổ sử. Trở ngại này do khả năng Hán học của người viết quá thô thiển.
Sự tra cứu tưởng như phải ngưng ở đây vì chữ "can", vì người viết nghi ngờ chữ "can" có thể phiên dịch là "can, hãn", vì nghĩ là đã bị ghi sai khi chuyển lên ấn bản điện tử. May mắn thay! Sự việc đã không như thế, sách "Thủy Kinh Chú sớ" của hai học giả Dương Thủ Kính và Hùng Hội Trinh (37) đã giải thích về chữ “can” và “hãn” khá rõ ràng như sau:
Bản dịch : Nguyễn Bá Mão dịch từ "Thủy Kinh Chú Sớ", (quyển 33 đến quyển 40).
Trang 684: "Sông Cống Thủy lại chảy về phía bắc, đi qua huyện Nghiêu Dương (38), Thủ Kính chú: thời Hán, huyện thuộc quận Dự Chương, thời Hậu Hán y theo, thời Ngô thuộc quận Bà Dương, thời Tấn y theo, thời Tống bớt. Huyện ở phía tây bắc huyện Bà Dương ngày nay 120 dặm(39)là huyện Dự Chương thời Vương Mãng. Có sông Dư Thủy chảy vào. Sông Dư Thủy ra về phía đông ở huyện Dư Hãn, thời Vương Mãng gọi là Trị Can. Sông Dư Thủy chảy về phía bắc đến huyện Nghiêu Dương chảy vào sông Cống Thủy. Thủ Kính chú: "Hán chí", "Tấn chí" viết chữ "hãn" là "mồ hôi", "Tống chí" và "Tề chí" viết chữ "can" là "liên can". Thời Hán, huyện Dư Hãn thuộc quận Dự Chương, thời Hậu Hán y theo, thời Ngô thuộc là quận Bà Dương, các thời Tấn, Tống, Tề, Lương y theo. Huyện ở phía đông bắc huyện Dư Can ngày nay".
Vậy nếu theo như giải thích của học giả Dương Thủ Kính thì chữ "Dư Hãn" trong "Hán Chí" (Hậu Hán thư, Chí) và "Tấn chí" (Tấn thư, Chí) cũng là chữ "Dư Can" như trong sách Hoài Nam Tử, nhưng  đã bị thay đổi theo thời gian. Vậy cũng có thể hiểu "Dư Can" thời Tần cũng là "Dư Hãn" thời Hán; như đã viết trong sách Hoài Nam Tử.
Hậu Hán thư của Phạm Việp, "Chí đệ thập nhị", "Quận quốc tứ" viết Dư Hãn là một huyện của quân Dự Chương (xin đọc trong trích dẫn nói về huyện Nam Dã).
Tấn Thư viết Dư Hãn là một huyện của quận Bá (Bà) Dương (Poyang) thời Ngô (40)
Qua những trích dẫn trên, ta có thể biết được là “Dư Can” trong sách Hoài Nam Tử  tọa lại tại huyện Dư Can tỉnh Giang Tây ngày nay. Huyện lỵ là thị xã Dư Can ở sát phía bắc của sông Tín (Xin jiang  ).
Dư Can thủy
Địa danh Dư Can đã được biết qua dẫn chứng trên, tuy nhiên vị trí sông Dư Can vẫn chưa biết rõ. Qua câu phiên dịch sách “Thủy Kinh Chú sớ” : “Sông Dư Thủy ra về phía đông ở huyện Dư Hãn” (Thuỷ đông xuất Dư  Hãn huyện). Ta có thể biết rằng sông Dư Thủy nói ở đây là sông Dư Hãn, cũng là Tín giang (Xin jiang  ) ngày nay. Sông này bắt nguồn từ rặng Vũ Di sơn (Wuyi shan) chảy về phía tây, hợp với một nhánh của sông Cám đổ vào hệ thống sông ngòi phức tạp quanh vùng hồ Bá Dương.
Một đạo quân Tần đã dùng thủy đạo đến đóng tại thượng lưu Dư Hãn thủy (Tín giang), gần ranh giới phía đông bắc tỉnh Giang Tây và tây bắc tỉnh Phúc Kiến, để chuẩn bị vượt Vũ Di Sơn tiến vào Mân Việt. Người viết phỏng đoán quân Tần đã đóng gần thị xã Ưng Đàm ( Yingtan) ngày nay, vì tại đây có đường xe lửa cũng như xa lộ băng qua Vũ Di Sơn tới Nam Bình (Nanping) và Phúc Châu ( Fuzhou) tỉnh Phúc Kiến (Mân Việt thời Tần) là hai thị trấn lớn. Điều này ám chỉ là ngày xưa có thể có đường bộ băng qua vùng núi này. Hơn nữa khi vừa băng qua Vũ Di sơn là có sông Phú Đồn ( nối với sông Mân. Đây là thủy lộ thuận tiện nối Nam Bình với Phú Châu).
Vậy là chúng ta đã biết được 5 địa điểm đóng quân của 500 ngàn quân Tần trong chiến dịch  xâm lăng Bách Việt. Những địa điểm này được ghi lại trong bản đồ đính kèm dưới đây:


Bản đồ số 6 - 5 địa điểm đồn trú của quân Tần (tổng quát)

 
Bản đồ số 7 - 5 địa điểm đồn trú của quân Tần


(1) Phiên âm Hán Nôm: “Tam thập tam niên , phát chư thường bô vong nhân, chuế tế, cổ (giả) nhân lược thủ Lục Lương địa , vi Quế Lâm,Tượng quận, Nam Hải , dĩ thích khiển thú”.
(2)" 209 +(13-1) = 221 TCN" : năm thứ 1là 209 TCN, đếm thêm 12  (thứ 13) là 221 TCN
(3) Độc giả có thể sao lại nguyên bản bằng chữ  Hán tại: http://www.geocities.com/fengshui_clasicos/HuaiNanZi.html
(4) Nguyên bản:
(5) Đương nhiên là người viết có thể có những thiếu sót và sai lầm trong đoạn phiên dịch này, xin các bậc tinh thông Hán học chỉ bảo.
(6) Người viết dùng tên Sử Lộc như  trong sách "Việt Sử Toàn Thư ", của sử gia Phạm Văn Sơn, trang 56
(7) Lưu An được phong Hoài Nam Vương (164BC) . Ông không nhập bọn theo "loạn 7 nước năm 154 TCN" thời Hán Cảnh Đế, nên được triệu về Trường An để tham chính . Nguồn: Hán Thư của Ban Cố quyển 44, " Hoài Nam Hành Sơn Tế Bắc vương liệt truyện"
(8)  Tham khảo từ sách "Tigers, Rice, Silk & Silt" của Robert B. Marks, trang 21-24, và trong  http://en.wikipedia.org/wiki/Mei_Pass
(9) Trương Cửu Linh (Zhang Jiuling 678-740, thời Đường Huyền Tông 712-756). Ông này quê ở Thiều Quan (Shaoguan), phiá tây nam Mai quan, nên hăng hái mở đường thông thương giũa Hoa Hạ và Lĩnh nam
(10)Sử Ký: Tam gia chú
Dương Sơn, Linh Tác ẩn diêu thị án :Địa Lý chí vân Yết Dương hữu Dương Sơn huyện . Kim thử huyện thượng lưu bách dư lý hữu Kỵ Điền lĩnh , đương thị Dương Sơn quan .  
(11)  Robert B. Marks: "Tigers, Rice, Silk & Silt-  Environment and Economy in Late Imperial South China", Cambridge University Press, 1998
(12) Hidden Trade Routes of The South : http://www.uglychinese.org/vietnamese.htm
(13)Lúc này vua nước Việt là Việt Vương Vô Cương 337 TCN-333 TCN
(14)  Độc giả có thể xem những di chỉ này tại: http://news.gov.hk/en/citylife/041109/html/041109en20004.htm#
(15) Ngày nay,  Quảng Tây là Tráng tộc tự trị khu (Guangxi Zhuang Autonomous Region). Tổng số dân tộc Tráng khoảng 18 triệu người.
(16) Lê tộc ngày nay có khoảng  1.3 triệu người, hầu hết định cư tại đảo Hải nam
(17) Robert B. Marks: "Tigers, Rice, Silk & Silt-  Environment and Economy in Late Imperial South China", Cambridge University Press, 1998, trang 54.
(18) H’Mong ( Miao), tên cũ để gọi dân tộc  thời xưa là  Miêu tộc, tiếng Việt gọi là người Mèo. Đây là một sắc tộc rất lớn, dân số lên tới 7.5 triệu người. Dân tộc H’Mông định cư tại các tỉnh của Trung Quốc như Quý Châu, Quảng Tây, Vân Nam, Hồ Nam, Tứ Xuyên, Hải Nam. Tại Việt Nam có khoảng có khoảng 800 ngàn người. Tại Hoa Kỳ có khoảng 275 ngàn người.
(19) Dư tộc (She)  khoảng trên 600 ngàn người, định cư tại các tỉnh Phúc Kiến, Chiết Giang, Giang Tây và Quảng Đông
(20)  Di tộc ( Yi  )  tiếng Việt gọi sắc tộc này là Lô Lô. Đây là sắc tộc lớn khoảng 6.5 triệu người, định cư tại các tỉnh Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây của Trung Quốc. Việt Nam có  khoảng hơn 3 ngàn người  Lô  Lô tại các tỉnh Hà Giang,  Lào Cai và Cao Bằng.
(21) Người Dao (Yao) khoảng tr ên 2 triệu người, định cư tại các tỉnh Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông của Trung Quốc. Vi ệt Nam có khoảng nửa triệu người Dao.
(22)  Quận Nam Hải: 19613 nhà, 94253 người. Quận Uất Lâm: 12415 nhà, 71162 người. Quận Thương Ngô: 24379 nhà, 146160 người. Quận Hợp Phố: 15398 nhà, 78980 người. Quận Giao Chỉ: 92440 nhà, 746237 người. Quận Cửu Chân: 35743 nhà, 166113 người. Quận Nhật Nam: 15460 nhà, 69458 người .
(23) Theo tác giả Robert B. Marks: "Tigers, Rice, Silk & Silt-  Environment and Economy in Late Imperial South China", Cambridge University Press, 1998, trang 55, Lĩnh Nam gồm Quảng Đông và Quảng Tây (năm 206 TCN đến 200 TCN) có khoảng 72,000 nhà và từ 350,000 tới 400,000 người
(24) Hậu Hán thư của Phạm Việp, "Chí đệ thập nhị", phiên dịch Hán Nôm: "Vũ Lăng quận Tần Chiêu Vương trí, danh Kiềm Trung quận, Cao Đế ngũ niên cánh danh. Lạc Dương nam nhị thiên nhất bách lý. Thập nhị thành, hộ tứ vạn lục thiên lục bách thất thập nhị (46672), khẩu nhị thập ngũ vạn cửu bách nhất thập tam (250913)...... Lâm Nguyên Hán thọ cố tác, Dương gia tam niên cánh danh, thứ sử trị. Sàn (sán) Lăng, Linh Dương, Sung, Nguyên Lăng tiên hữu Hồ Đầu sơn. Thần Dương, Dậu Dương, Thiên Lăng, Đàm Thành, Nguyên Nam, Kiến Vũ nhị thập lục niên (36AD) trí.
(25) Thuỷ Kinh Chú quyển tam thập thất : "Ngân Thuỷ xuất Vũ Lăng Đàm Thành huyện bắc giới Nguyên thuỷ cốc".
(26) Phiên dịch Hán Nôm: "Sở địa, dực - chẩn chi phân dã. Kim chi Nam quận - Giang Hạ - Linh Lăng - Quế Dương - Vũ Lăng - Trường Sa cập Hán trung - Nhữ Nam quận, tận Sở phân dã".
(27) Nguyên  giang chảy qua Hồ Nam khác với Nguyên giang tại Vân Nam. Nguyên giang ở Vân Nam là thượng nguồn  sông Hồng của Việt Nam.
(28)Linh Lăng quận Vũ Đế trí. Lạc Dương nam tam thiên tam bách lý. Thập tam thành, hộ nhị thập nhất vạn nhị thiên nhị bách bát thập tứ (21,284), khẩu bách vạn nhất thiên ngũ bách thất thập bát (1,001,578). Tuyền Lăng, Linh Lăng, Dương Sóc sơn Tương thuỷ xuất. Doanh đạo nam hữu Cửu Nghi sơn. Doanh Phổ linh đạo, Thao Dương, Đô Lương hữu Lộ sơn., Phù Di hầu quốc ( cố thuộc Trường Sa ) . Thuỷ An hầu quốc. Trọng An hầu quốc, cố Chung Vũ, Vĩnh Kiến tam niên (422AD) cánh danh. Tương hương, Chiêu (Thiệu) Dương hầu quốc . Chưng Dương hầu quốc, cố thuộc Trường Sa.
(29) Nguyên bản:
Phiên âm Hán Nôm: “…Hựu đông bắc quá Tuyền Lăng huyện tây . Doanh Thuỷ xuất Doanh Dương linh đạo huyện nam lưu xuất . Tây lưu kính Cửu Nghi sơn hạ , bàn cơ Thương Ngô chi dã , phong tú số quận chi dản (gian, nhàn) . La nham cửu cử , các đạo nhất khê , tụ hác phụ trở , dị lĩnh đồng thế , du giả nghi yên , cố viết Cửu Nghi sơn”.
(30)  Phiên âm Hán Nôm : Hán thư, Địa lý chí, quyển 28:
Nam Hải quận , Tần trí Tần bại , Uý Đà vương thử địa . Vũ đế Nguyên Đỉnh lục niên (111BC) khai . Thuộc Giao Châu . Hộ vạn cửu thiên lục bách nhất thập tam (19613) , khẩu cửu vạn tứ thiên nhị bách ngũ thập tam (94253) . Hữu  Bổ (Phố) Tu quan. Huyện lục : Phiên Ngu, Uý Đà đô. Hữu Diêm quan. Bác La, Trung Túc, hữu Khuông Phổ quan. Long Xuyên, Tứ Hội, Yết Dương
Việt địa, khiên ngưu - vụ nhữ (nữ) chi phân dã. Kim chi Thương Ngô - Uất lâm - Hợp Phố - Giao Chỉ - Cửu Chân - Nam Hải - Nhật Nam, giai Việt phân dã".
(31)  Phiên âm Hán Nôm :Hán thư, Địa lý chí, quyển 28: "Vũ Đế nguyên phong nguyên niên (111BC) lược dĩ vi Đạm nhĩ - Châu Nhai quận".
(32)  Phiên âm Hán Nôm: Hậu Hán thư , Chí đệ nhị thập nhị, quận quốc tứ : "Nam Hải quận Vũ Đế trí. Lạc Dương nam thất thiên nhất bách lý. Thất thành, hộ thất vạn nhất thiên tứ bách thất thập thất (71,477), khẩu nhị thập ngũ vạn nhị bách bát thập nhị (250,282).  Phiên Ngung (Ngu), Bác La, Trung Túc, Long Xuyên, Tứ Hội, Yết Dương, Tăng Thành hữu Lao Linh sơn".
(33)  Phiên âm Hán Nôm :Tấn thư, quyển thập ngũ, chí đệ ngũ: " Giao Châu: .... Nam Hải quận Tần trí. Thống huyện lục, hộ cửu thiên ngũ bách.  Phiên Ngung (Ngu), Tứ Hội, Tăng Thành, Bác La, Long Xuyên, Bình Di".
(34)   Phiên âm Hán Nôm :
"Dự Chương quận Cao Đế trí. Lạc Dương nam nhị thiên thất bách lý. Nhị thập nhất thành, hộ tứ thập vạn lục thiên tứ bách cửu thập lục (406,496), khẩu bách lục thập lục vạn bát thiên cửu bách lục (1,668,906).
Nam Xương, Kiến Thành, Tân Cam, Nghi Xuân, Lư Lăng,  Cám (Cống) hữu Dự Chương thuỷ. Vu Đô, Nam Dã hữu đài Linh (Lãnh) sơn., Nam Thành, Bá Dương hữu Bá thuỷ. Hoàng kim thái (thải). Lịch Lăng hữu Phó Dương sơn. Dư Hãn, Bá Dương, Bành Trạch, Bành Lãi trạch tại tây. Sài Tang, Ngải Hải Hôn hầu quốc. Bình Đô hầu quốc, cố An Bình., Thạch Dương, Lâm Nhữ, Vĩnh Nguyên bát niên (97) trí., Kiến Xương, Vĩnh Nguyên thập lục niên (105) phân Hải Hôn trí".
(35)  Phiên âm Hán Nôm: Tấn thư quyển thập ngũ, chí đệ ngũ : "Lư Lăng quận Ngô trí. Thống huyện thập, hộ nhất vạn nhị thiên nhị bách (12200). Tây Xương, Cao Xương, Thạch Dương, Ba Khâu, Nam Dã, Đông Xương, Toại Hưng, Cát Dương, Hưng Bình, Dương Phong".
(36) Phiên âm Hán Nôm :
Thuỷ Kinh chú quyển tam thập cửu (39) : "Cám (Cống ) thuỷ xuất Dự Chương Nam Dã huyện tây , bắc quá Cám (Cống) huyện đông . ...
 Ban Cố xưng Nam Dã huyện ,  Bành thuỷ sở phát , đông nhập Hồ Hán thuỷ .
Lưu Trừng Chi viết .... Dự Chương thuỷ đạo nguyên đông bắc lưu , kính Nam Dã huyện bắc" .
(37) Nguyễn Bá Mão, người biên dịch sách “Thủy Kinh Chú sớ: “ Đến thời cận đại, vào đầu thế kỷ 20, hai nhà học gỉa gồm thầy là Dương Thủ Kính (1839-1915) và trò là Hùng Hội Trinh (?-1936), trên cơ sở sách "Thủy kinh chú" của Lịch Đạo Nguyên, đã bỏ ra toàn lực trong mấy chục năm trời, thu thập rộng rãi trong các thư tịch, gom góp lại lời của nhiều học giả, để sớ, nghĩa là chú thích kỹ hơn sách "Thủy kinh chú" hợp lại sạn thành bộ sách "thủy kinh chú sớ" cũng gồm 40 quyển, với hơn 1, 510, 000 chữ, nhiều gấp 5 lần sách "Thủy kinh chú", và gấp 100 lần sách gốc "Thủy kinh".
(38) Những chữ  in đậm là phiên dịch từ "Thủy Kinh chú" của Lịch Đạo Nguyên.
Phiên dịch Hán Nôm: " Cám (Cống) thuỷ hựu bắc kính Nghiêu Dương huyện , Vương Mãng chi Dự Chương huyện dã . Dư Thuỷ chú chi . Thuỷ đông xuất Dư  Hãn huyện , Vương Mãng danh  chi viết Trị Can dã. Dư  Thuỷ bắc chí Nghiêu Dương huyện chú Cám (Cống) thuỷ".
(39) Đây là dặm của Trung Quốc, một dặm = 0.56 Km, không phải dặm Anh (1.6 km)
(40) Phiên âm Hán Nôm :
“Tấn thư quyển thập ngũ, chí đệ ngũ: Bá Dương quận Ngô trí. Thống huyện bát, hộ lục thiên nhất bách (6100). 
Quảng Tấn, Bá Dương, Lạc (Nhạc) An, Dư Hãn Nghiêu Dương, Lịch Lăng, Cát Dương, Tấn Hưng”.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét